Quảng Trị “Mùa hè đỏ lửa” năm 1972
Sau khi tỉnh Quảng Trị được giải phóng (01-5-1972), quân đội Mỹ và VNCH nhất quyết không để mất một tỉnh được xem là một “võ cứng” để đối chọi với miền Bắc, trong khi hội nghị Pari về lập lại hòa bình ở Việt Nam đang tiến dần đến một giải pháp chính trị và để cứu vãn nguy cơ quân đội VNCH - xương sống của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” đang đứng bên bờ vực thẳm, Tổng thống Mỹ Níchxơn vội vã ra lệnh “Mỹ hóa” trở lại cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam. Đầu tháng 5-1972, Tổng thống Mỹ đã cấp tốc đưa 40% máy bay chiến thuật (1077/2400 chiếc), 48% máy bay chiến lược B52 (193/400 chiếc), 7 tàu sân bay, 65 tàu chiến, đồng thời đưa các sư đoàn cơ động thuộc lực lượng dự bị của quân đội VNCH bao gồm 4 sư đoàn mạnh nhất, trong đó có sư đoàn Dù và sư đoàn lính thủy đánh bộ ra để thực hiện kế hoạch tái chiếm lại bằng được thị xã Quảng Trị mà mục tiêu quan trọng nhất là Thành Cổ Quảng Trị nhằm khích lệ thêm tinh thần và tẩy rửa tâm lý thất bại đang ngày càng lan rộng trong hàng ngũ sĩ quan và binh lính quân đội VNCH 1. Mặt khác, trong thời điểm đấu tranh ngoại giao giữa Chính phủ Mỹ và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, để gây sức ép đối với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại hội nghị Pari, Mỹ đặt mục tiêu bằng mọi giá phải cắm cờ trên Thành Cổ trước ngày 13-7-1972, tức trước khi Hội nghị 4 bên chính thức khai mạc tại Pari để thảo luận các vấn đề về Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình, quân đội Việt Nam cộng hòa đã tập trung lực lượng lớn quân lính, sử dụng hỏa lực mạnh và các phương tiện chiến tranh hiện đại mở cuộc phản công tái chiếm Quảng Trị lấy mật danh là “Lam sơn 72”, với dự định trong vòng từ cuối tháng 5-1972 đến giữa tháng 7-1972 sẽ cơ bản chiếm xong huyện Hải Lăng, thị xã Quảng Trị và huyện Triệu Phong.
Trước tình hình đó, quân giải phóng từ thế tiến công phải điều chỉnh gấp đội hình chiến đấu, bố trí lại lực lượng trong điều kiện cơ động hết sức khó khăn vì bom, pháo của đối phương đánh phá hết sức ác liệt vào các khu vực dấu quân, các trục đường hành quân, các trận địa phòng thủ, gây tổn thất khá lớn cho lực lượng quân giải phóng. Đứng trước yêu cầu cấp bách của cuộc chiến đấu, ngày 02-7-2972, Đảng ủy chiến dịch đã họp dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Quang Đạo, ra Nghị quyết chỉ đạo các đơn vị thực hiện nhiệm vụ trong tình hình mới. Trước mắt tập trung cao nhất sức mạnh hiện có để đánh bại cuộc hành quân “Lam Sơn 72” của địch, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng Quảng Trị.
Cuộc chiến đấu chống phản kích, tái chiếm Thành Cổ và thị xã Quảng Trị trong 81 ngày đêm năm 1972 (từ 28-6 đến 16-9) của quân và dân ta diễn ra nhiều đợt chiến đấu ác liệt trên một không gian rộng lớn bao gồm các huyện Hải Lăng, một phần huyện Triệu Phong và trên toàn thị xã Quảng Trị. Bắt đầu từ cuối tháng 7, tại các trận địa chốt thuộc các hướng vào thị xã Quảng Trị, các cuộc giành giật quyết liệt giữa quân giải phóng với quân đội VNCH diễn ra vô cùng ác liệt. Đặc biệt là các cứ điểm vùng ven, ngoại vi thị xã như: Long Hưng, Tri Bưu, La Vang, Long Quang, Bích La, Ngô Xá... Với quyết tâm bảo vệ được thị xã và Thành Cổ, quân giải phóng tăng cường lực lượng vào phòng thủ thị xã, tham gia giữ chốt trong thời gian này gồm có Tiểu đoàn 8 của Trung đoàn 64, Sư 320B (từ tháng 7 đến tháng 10-1972); Trung đoàn 48 của Sư 320B (từ tháng 10-1972 đến tháng 01-1973); Trung đoàn 95, Sư đoàn 325; Trung đoàn 165, Sư đoàn 312... Ngoài ra còn có Tiểu đoàn 14 bộ đội địa phương Quảng Trị; C1, C2 Huyện đội Triệu Phong và các lực lượng dân quân du kích địa phương... Mặc dù phải đối diện với hỏa lực tập trung ác liệt và kéo dài của không quân, hải quân Mỹ và những đơn vị chủ lực của quân đội VNCH tinh nhuệ nhất, nhưng quân giải phóng vẫn kiên cường chiến đấu giữ vững thị xã Quảng Trị trong nhiều ngày, trong cả mùa khô lẫn mùa mưa và loại khỏi vòng chiến đấu hàng vạn quân của lực lượng quân đội VNCH. Đặc biệt từ đầu tháng 9-1972, chiến sự diễn ra vô cùng ác liệt ở khu vực thị xã Quảng Trị và Thành Cổ, sự ác liệt của bom đạn, sự thương vong từ hai phía đã làm cho cuộc chiến đấu bảo vệ thị xã Quảng Trị và Thành Cổ trở thành một chiến trường điển hình về sự khốc liệt của chiến tranh Việt Nam. Sự hy sinh cao cả của những chiến sỹ quân giải phóng trong cuộc chiến đấu 81 ngày đêm tại Thành Cổ Quảng Trị đã viết nên trang sử vô cùng oanh liệt, hào hùng; là một khúc tráng ca về sức mạnh, ý chí kiên cường và lòng dũng cảm của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Thành Cổ Quảng Trị “Mỗi tấc đất là một cuộc đời có thật”
Trải qua 81 ngày đêm chiến đấu, chịu đựng hàng ngàn tấn bom đạn các loại, với ý chí “Bộ đội còn, Quảng Trị còn” hàng ngàn các chiến sĩ quân giải phóng đã chiến đấu kiên cường, bất khuất, trong đó rất nhiều chiến sĩ đã hi sinh anh dũng để bảo vệ Thành Cổ Quảng Trị. Các anh mãi mãi nằm lại giữa muôn vàn sóng nước, cỏ cây... và mây trời Quảng Trị. 81 ngày đêm năm 1972, Thành Cổ Quảng Trị được ví là một túi bom khổng lồ, thì hôm nay Thành Cổ Quảng Trị cũng được xem như là một nghĩa trang không nấm mộ, bởi xương thịt và máu của các anh đã hòa chung vào từng tấc đất nơi đây. Ở thị xã Quảng Trị, nếu xây dựng một công trình dù lớn hoặc nhỏ, lực lượng thi công và người dân dường như đều làm mọi việc rất khẽ khàng, cẩn thận, tỉ mĩ đến từng centimet, bởi từ trong sâu thẳm tâm can, tất cả mọi người đều nghĩ: biết đâu đấy, ở đây có các anh đang yên nghĩ. Đó chính là một sự thật hiễn nhiên, đã có hàng trăm cuộc tìm kiếm, quy tập hài cốt và hàng trăm câu chuyện về liệt sĩ đã diễn ra tại mảnh đất này trong những năm vừa qua. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, tôi xin được đề cập đến việc tìm kiếm, cất bốc và quy tập hài cốt liệt sĩ gắn liền với một số di vật liệt sĩ được tìm thấy tại khu vực nhà ông Nguyễn Văn Bang và bà Đỗ Thị Vinh, số nhà 44B đường Phan Châu Trinh - thị xã Quảng Trị. Những di vật của liệt sĩ là những thước phim quay ngược về quá khứ, đã tạo nên điều kỳ diệu cho gia đình liệt sĩ sau bao năm tháng đợi mong, kiếm tìm.
Khu vực nhà ông Nguyễn Văn Bang và bà Đỗ Thị Vinh cách Thành Cổ khoảng 500m về phía tây, cách bờ sông Thạch Hãn khoảng 150 m về phía đông, trong một phạm vi nhỏ thôi nhưng tại đây gia đình ông Nguyễn Văn Bang và chính quyền thị xã Quảng Trị đã phải tổ chức 3 đợt khai quật, tìm kiếm hài cốt liệt sĩ (năm 2005, 2008 và 2009). Kết quả sau 3 đợt tìm kiếm, gia đình và lực lượng chức năng đã cất bốc được 13 hài cốt liệt sĩ. Đợt đầu tiên vào năm 2005, UBND thị xã Quảng Trị, Ban Chỉ huy quân sự thị xã Quảng Trị phối hợp với các phòng ban liên quan cùng với gia đình ông Nguyễn Văn Bang đã tiến hành tìm kiếm hài cốt. Lực lượng chức năng đã tiến hành khai quật nhiều địa điểm khác nhau trong khu vực sân vườn, khu vực tường rào và phía ngoài đường Phan Châu Trinh. Đợt khai quật này kéo dài từ ngày 18 đến ngày 26-4-2005, quá trình tìm kiếm ở một hố sâu khoảng 2m, rộng 4m tại vị trí tường rào và các hố xung quanh khu vực trước mặt đường Phan Châu Trinh đã phát hiện được 09 bộ hài cốt. Bên cạnh các hài cốt còn phát hiện một số hiện vật, di vật liệt sĩ như các ống thuốc tiêm, bơm kim tiêm, panh, băng gạc y tế, lọ thuốc penecilin, đây là những dụng cụ thường có trong trạm quân y tiền phương; các vật dụng cá nhân như: Bút máy, ví cá nhân, áo gối, gương, lược, dép cao su, cà mèn, bi đông, cuốc, xẻng, cúp và các loại súng, đạn AK, K54...
Theo các nhân chứng là cựu chiến binh từng tham gia cuộc chiến đấu 81 ngày đêm Thành Cổ Quảng Trị có mặt tại hiện trường, khu vực này là vị trí của một căn hầm cứu thương của quân giải phóng bị đánh sập, phía trước hầm cứu thương là một đường giao thông hào. Địa điểm này nằm sát bờ sông Thạch Hãn nên quân giải phóng đã lập một trạm cứu thương để làm nơi cứu chữa và điều trị cho các thương binh và thuận lợi trong việc chuyển những thương binh nặng qua sông về tuyến sau khi điều kiện cho phép.
Đợt khai quật thứ 2 diễn ra nào ngày 30-9-2008, ông Nguyễn Văn Bang đã quyết định tiếp tục tìm kiếm lần thứ hai. Lần này những hài cốt còn nằm sâu hơn dưới lòng đất nên các hố tìm kiếm được đào sâu hơn lần trước. Kết quả sau đợt tìm kiếm này đã phát hiện thêm được 01 bộ hài cốt cùng một số di vật, hiện vật liên quan đến liệt sỹ như 2 quả đạn cối, những chiếc đế giày, một băng đạn AK...
Đợt thứ 3 diễn ra vào ngày 21-9-2009, sau khi tiến hành đào các hố trong khuôn viên sân vườn, gia đình đã phát hiện thêm được 03 bộ hài cốt cùng một số di vật, hiện vật liên quan đến cuộc sống, sinh hoạt và chiến đấu của quân giải phóng như các loại bát ăn cơm, ăng gô, đạn cối...
Sự việc được gia đình báo cáo chính quyền địa phương, UBND phường II phối hợp với các phòng ban liên quan và Ban Chỉ huy quân sự thị xã Quảng Tri đã tiến hành cất bốc, quy tập hài cốt liệt sỹ, tổ chức lễ truy điệu và mai táng tại nghĩa trang thị xã Quảng Trị, các di vật liệt sĩ được bàn giao lại cho Ban Quản lý di tích Thành Cổ Quảng Trị. Hiện nay các di vật liệt sĩ đang được bảo quản một cách cẩn trọng nhằm phục vụ cho công tác trưng bày và giới thiệu khách tham quan.
Đặc biệt nhất trong đợt khai quật, cất bốc hài cốt liệt sĩ năm 2005, tại đây lực lượng chức năng đã phát hiện ra di vật là chiếc bi đông khắc tên Văn Hạnh. Chiếc bi đông này dùng để đựng nước uống, có dáng hơi tròn, có màu xanh lá đặc trưng, thân bình được làm bằng nhôm, nắp được làm bằng nhựa, có một đoạn dây dù nhỏ gắn ở nắp nối xuống cổ bi đông nhằm giữ cho nắp không bị rơi mất, một bên thân lõm ở giữa, bi đông thường được đeo vào thắt lưng của bộ đội và phần lõm thường được quay vào phía trong để giảm bớt cọ xát khi đi hành quân. Chiếc bi đông này được phát hiện bên cạnh một bộ hài cốt tại một góc tường rào cạnh cổng ra vào nhà ông Nguyễn Văn Bang, rất nhiều cựu chiến binh từng chiến đấu tại Thành Cổ Quảng Trị có mặt tại hiện trường khai quật đã nhận ra cái tên Văn Hạnh được khắc trên võ bi đông chính là đồng đội của mình và theo hồ sơ được lưu trữ tại Phòng LĐTBXH thị xã Quảng Trị, các cơ quan chức năng đã nhận định hài cốt này chính là liệt sỹ Trần Văn Hạnh.
Năm 2016, trong quá trình nghiên cứu lập hồ sơ lý lịch hiện vật tai di tích Thành Cổ Quảng Trị, khi tìm hiểu về chiếc bi đông khắc tên Văn Hạnh, tôi có dịp tìm về quê nhà của liệt sĩ Văn Hạnh tại thôn Thủy Sơn, xã Quảng Long, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Bước vào ngôi nhà đơn sơ, tôi nhẹ nhàng thắp một nén nhang lên bàn thờ liệt sĩ với tất cả tấm lòng thành kính, biết ơn xen lẫn niềm tự hào, cảm phục đối với những công lao to lớn và sự hy sinh cao cả của người anh hùng liệt sĩ. Đón tiếp chúng tôi là vợ chồng chị Châu, một người cháu gái gọi liệt sĩ Văn Hạnh bằng cậu, mở đầu câu chuyện là những nỗi niềm thương tiếc đối với người cậu của mình cùng với những giọt nước mắt lăn dài trên má chị. Những kỷ vật của liệt sĩ được gia đình cất giữ cẩn thận và từ từ được mở ra trước mắt chúng tôi, đó là những bức thư anh viết gửi mẹ từ chiến trường, là lá đơn xin gia nhập Đảng, là bức ảnh chân dung chụp ở đơn vị... Mẹ anh đã nâng niu, gìn giữ những kỷ vật đó của người con trai yêu quý nhất và đau đáu nhớ thương con cho đến những ngày cuối đời.
Liệt sỹ Trần Văn Hạnh có tên gọi khác là Trần Đức Hạnh sinh ngày 03-6-1949, quê quán thôn Thủy Sơn, xã Quảng Long, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Trong lúc đang là học sinh của trường Trung học Tài chính - Kế toán I Hải Dương, anh đã đăng ký tham gia vào quân đội nhân dân Việt Nam và nhập ngũ ngày 17-4-1968. Anh tham gia cuộc chiến đấu chống phản kích tái chiếm Thành Cổ và thị xã Quảng Trị trong 81 ngày đêm năm 1972 với cấp bậc Trung sỹ, chức vụ: Tiểu đội phó, Đại đội 2, Tiểu đoàn 17, Sư đoàn 325.
Cuối tháng 7, đầu tháng 8 năm 1972, được sự hỗ trợ của quân Mỹ, các cuộc phản kích của quân đội VNCH diễn ra rất ác liệt, các tiểu đoàn bộ binh của quân giải phóng bị suy giảm quân số một cách nhanh chóng. Để tăng cường sự vững chắc của phòng ngự và giảm bớt thương vong, giữ gìn lực lượng chiến đấu, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Sư đoàn 325 đã quyết định: Đi đôi với thực hiện nhiệm vụ tác chiến, động viên tổ chức bộ đội tích cực cấu trúc trận địa, các đơn vị phải tích cực đào hầm hào thành thế liên hoàn, giao thông hào nối liền các trận địa phía sau và tuyến giao thông hào ra tới bờ sông Thạch Hãn. Phải nhanh chóng đưa mọi hoạt động của bộ đội trong thị xã xuống lòng đất, kể cả việc đi từ các trận địa ra bờ sông nhận vũ khí, lương thực bổ sung. Chính vì vậy, Sư đoàn 325 đã đưa Tiểu đoàn 17 công binh vào để làm công tác vận chuyển vật liệu sang thị xã. Các chiến sĩ Tiểu đoàn công binh 17 có nhiệm vụ xây dựng các công trình phòng thủ trong thị xã Quảng Trị, nhưng trước tình hình hết sức gay go và ác liệt, các anh cũng tham gia chiến đấu bằng cách vào tận trận địa của địch tổ chức đánh bom, mìn… tiêu hủy nhiều trận địa và làm tiêu hao nhiều quân lính của quân đội VNCH 2. Liệt sỹ Trần Văn Hạnh là một trong những chiến sĩ công binh Tiểu đoàn 17 nhận nhiệm vụ chiến đấu tại thị xã Quảng Trị và đã anh dũng hy sinh. Anh cùng với biết bao nhiêu người con ưu tú của đất nước đã dâng hiến cả cuộc đời mình để cho đất nước được độc lập, tự do.
May mắn hơn rất nhiều so với những gia đình liệt sĩ khác, thông qua di vật là chiếc bi đông khắc tên Văn Hạnh mà danh tính của liệt sĩ Trần Văn Hạnh được cơ quan chức năng và gia đình nhận diện một cách dễ dàng và thuận lợi. Sau khi tìm được hài cốt của liệt sĩ Trần Văn Hạnh, gia đình anh có nguyện vọng và mong muốn hài cốt anh được chôn cất cùng với đồng đội tại mảnh đất mà anh đã chiến đấu và hy sinh. Chính vì vậy, hài cốt liệt sỹ Trần Văn Hạnh được an táng tại nghĩa trang liệt sỹ thị xã Quảng Trị.
Di vật liệt sĩ Thành Cổ Quảng Trị - Những thanh âm vang vọng của một thời hoa lửa
Đến với thành Cổ Quảng Trị hôm nay, chúng ta như đang bước vào một cõi thiêng, dâng trào cảm xúc khi bắt gặp những hiện vật được trưng bày và giới thiệu khách tham quan, đặc biệt là những hiện vật thuộc nhóm di vật liệt sĩ. Sau ngày đất nước thống nhất, trong quá trình tái thiết và xây dựng lại thị xã Quảng Trị các đơn vị thi công và người dân đã nhiều lần phát hiện rất nhiều hài cốt liệt sĩ đã từng chiến đấu và hy sinh tại mảnh đất này. Tại những nơi khai quật, tìm kiếm, bên cạnh những hài cốt liệt sỹ, còn phát hiện thêm những di vật gắn liền với cuộc sống cũng như quá trình chiến đấu của các chiến sỹ quân giải phóng.
Hiện nay, tại Bảo tàng Thành Cổ Quảng Trị đang trưng bày và lưu giữ những di vật liệt sĩ được phát hiện trong nhiều năm qua, trong đó có những di vật khi phát hiện được gắn liền với tên tuổi, quê quán, đơn vị của liệt sĩ, đó là những cuốn nhật ký, những lá thư, những bức ảnh chân dung... Cùng với di vật là chiếc bi đông khắc tên Văn Hạnh, di vật của liệt sĩ Lê Binh Chủng - Chính trị viên phó, Tiểu đoàn K3 Tam Đảo cũng là một trong những di vật tiêu biểu thuộc nhóm này. Năm 1999, khi đang thi công công trình cống thoát nước thuộc dự án tôn tạo Thành Cổ giai đoạn 1, sau đào một lớp đất khoảng 60 - 70cm đã bắt gặp một căn hầm bằng bê tông, sự việc được trình báo lên chính quyền địa phương và lực lượng chức năng đã tiến hành tìm kiếm và phát hiện được 5 bộ hài cốt kèm theo nhiều di vật liệt sĩ. Bên cạnh một bộ hài cốt có một số di vật được phát hiện gồm: một chiếc xắc cốt, dép cao su, súng... trong chiếc xắc cốt đó có một số giấy tờ, bút máy, đồng hồ… và đặc biệt là lá thư của người vợ - chị Phan Thị Biển Khơi viết gửi cho anh Lê Binh Chủng. Chính lá thư nằm trong lòng đất này đã giúp chính quyền địa phương nhận diện được danh tính của liệt sĩ Lê Binh Chủng. Đây là một trong số ít những trường hợp hiếm hoi và nhờ những di vật được phát hiện kèm hài cốt mà cơ quan chức năng nhận biết danh tính của liệt sĩ.
Ngoài ra, phần lớn những di vật được phát hiện cùng hài cốt liệt sĩ thường là những vật dụng cá nhân, vũ khí chiến đấu, những vật kỷ niệm mà các chiến sĩ quân giải phóng mang theo vào chiến trường... những di vật này gắn liền với cuộc sống, sinh hoạt trong chiến tranh của những chiến sĩ quân giải phóng. Thông qua các di vật này phần nào giúp chúng ta nhận biết sâu sắc hơn về cuộc chiến đấu đầy gian khổ, ác liệt tại mảnh đất Quảng Trị của một thời hoa lửa. Di vật là những khẩu súng AK chẳng còn nguyên vẹn, những đồ dùng cá nhân bị bom đạn đánh vùi dập không còn hình dạng; di vật là những đôi dép cao su đã mòn vẹt, chắc chắn rằng những đôi dép này đã từng gắn bó với người chiến sỹ trong suốt chặng đường dài hành quân, dép cao su đã trở thành một biểu tượng nổi tiếng của những người lính giải phóng quân trong cuộc chiến tranh giành độc lập tự do và thống nhất đất nước. Di vật là chiếc áo gối được thêu tay tỉ mỹ, phát hiện cùng chiếc áo gối còn có một số đồ dùng của phụ nữ như chiếc dép cao su có kích thước nhỏ nhắn, cái gương, chiếc lược... những di vật này được nhận định là những vật dụng của một nữ y tá đã hy sinh tại địa điểm trạm quân y tiền phương. Thời gian đã làm cho chiếc áo gối bị hư hỏng và phai màu, nhưng có lẽ trước đó di vật này là một đồ vật vô cùng quý giá của chủ nhân. Di vật là chiếc bút máy, một vật dụng cá nhân để mỗi lúc nhớ gia đình, bạn bè và người thân ở hậu phương, các anh lại trao gửi tình cảm yêu thương, kể những câu chuyện chiến đấu nơi chiến trường ác liệt, về những chiến công mà đồng đội và bản thân các anh đã đạt được và cả những lời ước hẹn về một ngày đất nước được hòa bình, các anh lại được sum họp với những người thân yêu...
Di vật liệt sĩ chính là những vật dụng đã từng gắn bó với nhiều người lính giải phóng quân trong cuộc kháng chiến giữ nước, những di vật đó tưởng chừng như mãi mãi lặng câm và chôn chặt vào lòng đất, nhưng không - những di vật liệt sĩ Thành Cổ Quảng Trị chính là một thanh âm bất tử, chứa đựng những giá trị cao cả, phản ánh chân thực nhất về cuộc chiến tranh đầy gian khổ, ác liệt và sự hy sinh anh dũng của những người lính giải phóng quân. Di vật liệt sĩ kể về những câu chuyện của ngày hôm qua, về một quá khứ hào hùng của dân tộc; là sự chờ mong của những người vợ, người mẹ với những nỗi đau thương khi mất đi một nửa yêu thương của chính mình; là lý tưởng, niềm tin, là hoài bão, khát vọng, là tình yêu, hạnh phúc... của những người con ưu tú đã cống hiến tuổi thanh xuân của mình cho đất nước. Các anh đã nằm lại trên mảnh đất Quảng Trị, máu xương các anh hòa vào dòng sông Thạch Hãn hóa thành bãi bồi phù sa, linh hồn các anh lẫn vào đất đá hóa thành cỏ cây... Đã gần tròn 50 năm kể từ mùa hè đỏ lửa năm 1972, nhưng những di vật liệt sĩ tại Thành Cổ Quảng Trị luôn được giữ gìn, bảo quản, trưng bày nhằm giới thiệu đến khách tham quan. Thời gian có thể làm cho chúng ta lãng quên đi rất nhiều điều, nhưng tôi tin chắc rằng các thế hệ hôm nay và mai sau sẽ không bao giờ quên sự hy sinh anh dũng của các thế hệ cha anh đi trước, đời đời ghi nhớ công ơn các anh hùng liệt sĩ và sẽ viết tiếp những câu chuyện về một thời BI - HÙNG Quảng Trị đầy MÁU và HOA./.
Nguyễn Thị Cúc
Chú thích:
[1] Trung tâm Bảo tồn Di tich và Danh thắng. Lý lịch di tích quốc gia đặc biệt “Thành cổ Quảng Trị và những địa điểm lưu niệm sự kiện 81 ngày đêm năm 1972”. Quảng Trị, 2013, tr. 20.
2 Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2, Sư đoàn 325. Lịch sử Sư đoàn 325 (1951 - 2013). Nxb QĐND, Hà Nội. 2014, tr. 401.
HỘI NGHỊ VIÊN CHỨC, NGƯỜI LAO ĐỘNG NĂM 2024
THÔNG BÁO XÉT TUYỂN VIÊN CHỨC SỰ NGHIỆP NĂM 2023
TẬP HUẤN KIỂM KÊ, SƯU TẦM, TƯ LIỆU HOÁ DI SẢN VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG
Bộ Văn hóa ra Quyết định đưa vào danh mục Văn hóa phi vật thể Quốc gia: LỄ HỘI ARIÊU PIING CỦA NGƯỜI TÀ ÔI (PA CÔ) huyện Đakrông, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị.
ĐOÀN ĐẠI BIỂU CẤP CAO TỈNH SÊ KÔNG, NƯỚC CHDCND LÀO THĂM DI TÍCH ĐỊA ĐẠO VỊNH MỐC
HOẠT ĐỘNG ĐOÀN THANH NIÊN HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 76 NĂM NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SỸ
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI VÀ ĐOÀN CÔNG TÁC VIẾNG THĂM DI TÍCH LỊCH SỬ TỈNH QUẢNG TRỊ
ĐOÀN ĐẠI BIỂU CẤP CAO TỈNH CHAMPASAK, NƯỚC CHDCND LÀO THĂM DI TÍCH ĐỊA ĐẠO VỊNH MỐC
ĐOÀN LÃNH ĐẠO TỈNH QUẢNG TRỊ DÂNG HƯƠNG, TRI ÂN CÁC ANH HÙNG LIỆT SĨ TẠI DI TÍCH QUỐC GIA THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ
HỌP BÀN PHƯƠNG ÁN TRÙNG TU TÔN TẠO DI TÍCH QUỐC GIA ĐÌNH LÀNG HÀ THƯỢNG
THÔNG BÁO DANH SÁCH THÍ SINH ĐẢM BẢO ĐIỀU KIỆN DỰ TUYỂN