Vật đổi vật, hóa tệ, tín tệ, tiền tệ… là một hình thái cơ bản thể hiện sự thống nhất giữa con người với nhau trong quá trình giao thương, trao đổi, mua bán. Trong thời kỳ đầu của chế độ cộng sản nguyên thủy, với công cụ lao động thô sơ, con người sống chủ yếu dựa vào tự nhiên bằng hình thức tự cung, tự cấp với số sản phẩm thu về sau một ngày săn bắt, hái lượm. Khi đời sống cộng đồng phát triển, ý thức phân công lao động được hình thành; đặc biệt, khi lượng sản phẩm làm ra ngày một dư thừa đã làm nảy sinh quan hệ trao đổi giữa các bộ tộc, thị tộc với nhau. Bên cạnh việc thực hiện trao đổi sản phẩm trực tiếp “vật đổi vật”, người ta còn dùng những loại hóa tệ sơ khai như vỏ ốc biển, vỏ sò để làm “vật trung gian” trong trao đổi, mua bán khi tiền tệ chưa được phát minh. Đây là một bước tiến lớn để xã hội công xã nguyên thủy thoát khỏi tình trạng tự cung, tự cấp. Tuy nhiên, sử dụng vỏ ốc, vỏ sò cũng có nhiều hạn chế; đặc biệt, là khi xã hội loài người phát triển, vỏ ốc không còn khan hiếm, mà xuất hiện những vật liệu ưu việt hơn đó là kim loại (đồng, bạc, vàng), thì nó đã nhanh chóng được sử dụng làm tiền ở hầu hết mọi nơi trên thế giới trong một giai đoạn lịch sử rất dài và cùng song hành với tiền giấy cho đến tận ngày nay.
Qua nhiều năm nghiên cứu và tiến hành khai quật khảo cổ học, sưu tầm hiện vật trên địa bàn toàn tỉnh; nhà trưng bày Bảo tàng Quảng Trị hiện đang lưu giữ một số loại hóa tệ cổ sơ nhất, từ đây có thể lần tìm về quan hệ giao thương của người xưa trên vùng đất Quảng Trị và các vùng phụ cận.
1. Võ ốc biển/ốc cười tại di chỉ Hang Dơi (Cam Thành, Cam Lộ)
Từ tháng 6 đến tháng 8 năm 2006, Bảo tàng Quảng Trị phối Viện Khảo cổ học Việt Nam tiến hành khai quật tại di chỉ Hang Dơi đã phát hiện ba võ ốc biển có hình bầu dục, màu trắng vôi, mặt phẳng, lưng cong, miệng là một rãnh có gờ nhỏ. Đây là loại ốc sinh sống ở biển (thường được gọi là ốc cười, ốc bướm) được coi là vật trung gian trao đổi của người xưa.
Việc phát hiện ba vỏ ốc biển ở di chỉ khảo cổ học Hang Dơi được các giới khoa học quan tâm và nghiên cứu bởi vì: loại ốc này chỉ sống ở vùng biển Đông, tuyệt đối không có ở các vùng sông suối Quảng Trị, mà biển Đông thì cách Hang Dơi hơn 30 km về phía đông, nên khả năng người cổ sống tụ cư ở Hang Dơi tự đi khai thác để làm thức ăn và trang sức sẽ không thể xảy ra. Vậy, những con ốc biển này chỉ duy nhất đi theo con đường trao đổi vật phẫm, giao lưu văn hóa giữa những nhóm người cổ ở các vùng: miền núi - đồng bằng - vùng biển.
Biết khai thác thế mạnh của nguồn nguyên liệu đá sẳn có ở vùng rừng núi phía tây Quảng Trị, nhóm cư dân cổ ở đây đã biết tạo ra các sản phẩm của mình để trao đổi với các vùng phụ cận. Hình thức trao đổi của họ thời bấy giờ “vật đổi vật”, sản phẩm trao đổi là các công cụ đá như: bàn mài, rìu, bôn, cuốc… rồi mang về những sản phẩm của cư dân đồng đại ở những vùng khác mà tại nơi cư trú của mình không có được, đó là các loại ốc biển, ngao biển…
Từ những hiện vật phát hiện tại các di chỉ khảo cổ, nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đã thống nhất ý kiến cho rằng: vỏ ốc, đặc biệt là ốc biển - là loại hóa tệ cổ xưa và sơ khai nhất được sử dụng ở một số nước Châu Phi, Ả Rập, Châu Âu và cả Châu Á trong đó có Việt Nam. Những chiếc vỏ ốc biển có kích thước nhỏ, dễ mang theo bên người, bền màu và rất xinh đẹp vừa được sử dụng như đồ trang sức, vật trang trí; vừa như một dạng vật ngang giá trong trao đổi, mua bán.
Thời nguyên thủy, con người sống và sinh hoạt quần cư thành những bộ tộc tách biệt nhau, ban đầu họ kiếm sống theo phương thức săn bắt và hái lượm để tự cung cấp cho cuộc sống của bộ tộc mình; dần dần về sau họ đã biết chế tác ra các loại hình công cụ sản xuất bằng đá, săn bắt thú rừng, thủy hải sản sông suối và ven biển để phục vụ cho cuộc sống tự cung tự cấp của mình. Càng ngày, sản phẩm họ làm ra ngày một dư thừa, cần phải đổi những vật của người khác mà mình đang muốn có. Đối với nhóm người sống ở vùng núi phía tây thì công cụ rìu, bôn, cuốc đá là vật trao đổi chính, bên cạnh đó còn có các loại da thú, mật ong… họ săn bắt được trong môi trường tự nhiên núi rừng; với họ vỏ ốc biển, ngao biển là vật quý vì đó là những đồ trang sức đầu tiên của con người, một thứ đồ dùng xa xỉ khi cuộc sống, giao thương chưa phát triển. Ngược lại, các nhóm người vùng đồng bằng và ven biển thì các công cụ đá, da thú rừng là những thứ thiết yếu phục vụ trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày; trong khi đó, các loại sản vật như lúa gạo, cá, các loại ốc biển ngày càng phong phú. Từ đây xuất hiện phương thức “vật đổi vật” là điều tất yếu và dễ hiểu. Càng về sau, họ cảm thấy rằng làm như thế vẫn chưa thuận tiện trong khi vận chuyển và lưu thông, và cuối cùng đã lấy một loại hàng hóa mà mọi người đều thích tiếp nhận, vì nó đầy đủ các thuộc tính: đẹp, chắc chắn, bền, lại còn dễ dàng mang theo bên người: vỏ ốc biển/ ốc cười bắt đầu được làm "hoá tệ" đầu tiên của loài người, đây là hình thái cổ xưa và sơ khai nhất của tiền tệ, nó thực hiện chức năng mà các loại hàng hóa thông thường khác không có được.
Từ việc phát hiện những vỏ ốc biển, ngao biển ở di chỉ Hang Dơi, đến sự có mặt hầu khắp các công cụ bàn mài, rìu, bôn, cuốc đá trên địa bàn tỉnh Quảng Trị đã minh chứng rõ: thời bấy giờ các nhóm người cổ ở Quảng Trị đã biết giao lưu, trao đổi các sản phẩm của mình làm được cho nhau qua con đường sông Hiếu. Đây là trục giao thương Đông - Tây (Núi- Biển) có từ rất sớm và đều xuất phát từ lưu vực dòng chảy của các con sông: Thạch Hãn, Hiếu Giang, Hiền Lương… để sau này là Đường 9 - đường liên Đông Nam Á. Chứng cứ là mối liên hệ mật thiết giữa cụm di tích Hang Dơi và các di tích phụ cận ở phía tây với Bình Tra, Cổ Lũy, Cồn Cỏ ở phía đông.
2. Lướt/vật trao đổi tượng trưng, sưu tầm tại bản Tam Leng, xã Thanh, huyện Hướng Hóa
Tháng 9-1997, trong một đợt đi nghiên cứu, sưu tầm hiện vật tại các xã vùng tây nam Hướng Hóa, đoàn cán bộ nghiệp vụ Bảo tàng Quảng Trị đã phát hiện ra Lướt, tại nhà ông Hồ Piên, thôn 1 (bản Tam Leng), xã Thanh.
Hiện vật là một thỏi đồng, hình thoi, ở giữa có rãnh hình lòng máng, hai đầu khum tròn, người Vân Kiều gọi là Lướt. Nhìn tổng thể đây là một thỏi đồng hợp kim (đồng thau) được đúc thủ công và không hề có tính mỹ thuật. Bề mặt của Lướt lồi lõm, sần sùi, các đường gờ không sắc cạnh lại càng không theo một đường thẳng cố định, điều này chứng tỏ khuôn đúc Lướt được tạo ra trước khi đúc không lâu và theo một quy trình vô cùng đơn giản. Người thợ chỉ cần rót đồng nấu chảy vào khuôn để tạo hình chứ không gia công mài dũa cho vật đúc thêm phần sắc sảo. Nhìn vào đồng Lướt có thể khẳng định chủ nhân tạo ra hiện vật là người non kém về kỷ thuật đúc đồng và thời kỳ sử dụng đồng Lướt để trao đổi, mua bán trong lịch sử cách ngày nay hàng ngàn năm.
Lướt là hóa tệ kim loại cũng là loại tiền tệ xuất phát từ hàng hóa vật trao đổi mang tính tượng trưng của người Bru - Vân Kiều và Pa Cô trong giai đoạn chưa xuất hiện tiền tệ. Nếu xem xét các loại hóa tệ có trước khi đồng tiền chính thức ra đời như: ốc tiền, đao tiền, tiền mặt quỷ… với tư cách là vật trao đổi trung gian rất cổ sơ dùng trong lưu thông thay thế hình thức “vật đổi vật” thì lướt là một dạng Đao tiền 1 (một loại hóa tệ kim loại bằng đồng, đúc hình như con dao, được sử dụng vào thời cổ ở các nước chư hầu Tề, Yên, Việt, vùng đông bắc Trung Quốc).
Theo sách Đại Nam thực lục chính biên chép: “Tháng 9 năm Minh Mệnh thứ 9 (1828), đất nước Nam Chưởng, đông giáp Trấn Ninh, nam giáp Vạn Trượng, tây giáp Xiêm La, bắc giáp Miến Điện; chỉ có 7 mường, dân số không quá 2 vạn người, không có thuế điền…; chợ búa mua bán lấy vỏ ốc thay tiền” 2. Trấn Ninh có tổng Viên Kiều, dân chủ yếu là Tà Ôi, Cờ Tu và Lào, họ có quan hệ trao đổi mật thiết với nhóm Vân Kiều, Pa Cô ở vùng núi phía tây Quảng Trị, Quảng Bình và Thừa Thiên Huế. Vì vậy, việc tồn tại các loại hóa tệ như vỏ ốc tiền, hay các đồng Lướt để làm vật trao đổi trung gian giữa các tộc người nói trên trong giai đoạn trước cho đến thế kỷ XVI - XVII là điều chắc chắn đã xảy ra; bởi lúc này ở Đằng Trong, đến thời các chúa Nguyễn cũng chưa đúc được tiền của riêng triều đại mình mà chỉ sử dụng các loại tiền của các vương triều trước đó, kể cả tiền Trung Quốc để lưu thông buôn bán, trao đổi. Việc các tộc người thiểu số sống tách biệt ở những vùng núi hẻo lánh, thú dữ luôn rình rập, đường sá giao thông đi lại khó khăn, hiểm trở, rất ít khi tiếp xúc với nhóm người Việt ở đồng bằng; nên việc lưu thông các loại tiền đồng Việt Nam và Trung Quốc (tiền hình tròn, ở giữa có lỗ vuông, xung quanh có các chữ Hán) là rất ít và không thông dụng. Do vậy, các vật trao đổi trung gian làm hóa tệ như Ốc tiền và Lướt được sử dụng như các loại tiền tệ để lưu thông là điều tất yếu và kéo dài cho đến những năm cuối cùng của triều Nguyễn.
Qua các hiện vật, tài liệu khảo cổ học, đặc biệt là các hóa tệ sơ khai tại Bảo tàng Quảng Trị đã chứng minh một cách khá thuyết phục sự giao thương về kinh tế, hay có thể nói là nền kinh tế thương nghiệp đã hình thành trên vùng đất Quảng Trị từ khá sớm trong lịch sử. Đây là tuyến giao thương xuôi - ngược, biển - rừng, đông - tây qua sông Hiếu và đường thượng đạo xuyên sơn - con đường công cụ, đường hương liệu, đường muối đã hình thành từ rất sớm vào thời hậu kỳ đá mới, sơ kỳ kim khí, cách ngày nay chừng hơn 5.000 năm. Một vùng đất với số sản phẩm mang tính hàng hóa đặc trưng của nông nghiệp, mà nhất là các loại nông, lâm, thổ sản nên việc buôn bán nội địa và giao thương với bên ngoài đã phát triển hơn so với nhiều nơi khác trong khu vực; trở thành một vùng có quan hệ giao thương mạnh mẽ với các tuyến thương mại mậu dịch được xác lập và đóng một vai trò quan trọng có tính quyết định trong sự phát triển kinh tế, xã hội; nối Quảng Trị - Việt Nam với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Đây là con đường giao thương được hình thành từ rất sớm và trở thành con đường chiến lược quan trọng của Quảng Trị và cả nước sau này./.
Cái Thị Vượng
Chú thích
1 Lê Đức Thọ. Lướt/vật trao đổi tượng trưng. Lý lịch hiện vật. Bảo tàng Quảng Trị, năm 1997.
2 Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục chính biên (tập 2). Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr. 748.
HỘI NGHỊ VIÊN CHỨC, NGƯỜI LAO ĐỘNG NĂM 2024
THÔNG BÁO XÉT TUYỂN VIÊN CHỨC SỰ NGHIỆP NĂM 2023
TẬP HUẤN KIỂM KÊ, SƯU TẦM, TƯ LIỆU HOÁ DI SẢN VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG
Bộ Văn hóa ra Quyết định đưa vào danh mục Văn hóa phi vật thể Quốc gia: LỄ HỘI ARIÊU PIING CỦA NGƯỜI TÀ ÔI (PA CÔ) huyện Đakrông, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị.
ĐOÀN ĐẠI BIỂU CẤP CAO TỈNH SÊ KÔNG, NƯỚC CHDCND LÀO THĂM DI TÍCH ĐỊA ĐẠO VỊNH MỐC
HOẠT ĐỘNG ĐOÀN THANH NIÊN HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 76 NĂM NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SỸ
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI VÀ ĐOÀN CÔNG TÁC VIẾNG THĂM DI TÍCH LỊCH SỬ TỈNH QUẢNG TRỊ
ĐOÀN ĐẠI BIỂU CẤP CAO TỈNH CHAMPASAK, NƯỚC CHDCND LÀO THĂM DI TÍCH ĐỊA ĐẠO VỊNH MỐC
ĐOÀN LÃNH ĐẠO TỈNH QUẢNG TRỊ DÂNG HƯƠNG, TRI ÂN CÁC ANH HÙNG LIỆT SĨ TẠI DI TÍCH QUỐC GIA THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ
HỌP BÀN PHƯƠNG ÁN TRÙNG TU TÔN TẠO DI TÍCH QUỐC GIA ĐÌNH LÀNG HÀ THƯỢNG
THÔNG BÁO DANH SÁCH THÍ SINH ĐẢM BẢO ĐIỀU KIỆN DỰ TUYỂN