THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ VÀ NHỮNG ĐỊA ĐIỂM LƯU NIỆM SỰ KIỆN 81 NGÀY ĐÊM NĂM 1972
1. DI TÍCH THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

Di tích Thành cổ Quảng Trị nằm giữa lòng thị xã Quảng Trị; cách quốc lộ 1A gần 1km về phía đông bắc, cách thành phố Đông Hà - tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Trị hiện nay khoảng 14km về phía đông nam và cách thành phố Huế hơn 60km về phía bắc. Địa bàn thị xã Quảng Trị có diện tích không lớn nhưng nằm trên trục giao thông huyết mạch quốc gia, có vị trí địa chính trị quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.

Đài tưởng niệm Thành cổ Quảng Trị

1. Lịch sử xây dựng và diện mạo kiến trúc Thành cổ Quảng Trị

* Lịch sử xây dựng

Năm 1809, một năm sau khi dinh Quảng Trị trở thành dinh trực lệ Kinh sư (cùng với Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Đức), triều đình nhà Nguyễn nhận thấy vị trí đóng lỵ sở của dinh Quảng Trị tại Ái Tử - Trà Liên không được đắc địa, khó có thể hội đủ các điều kiện để trở thành một trung tâm chính trị, kinh tế, xã hội cho một vùng trực lệ Kinh sư nên vua Gia Long cho chuyển lỵ sở dinh Quảng Trị về xã Thạch Hãn, huyện Hải Lăng. Khu vực được chọn xây dựng Thành Quảng Trị là khu đất cao tại xã Thạch Hãn - Hải Lăng (ngày nay thuộc thị xã Quảng Trị). Từ Thành Quảng Trị có thể đi vào Nam hay ra Bắc bằng đường sông, đường bộ, đường biển đều thuận tiện. Quá trình xây dựng Thành Quảng Trị kéo dài gần 28 năm (1809 - 1837), bắt đầu từ thời Gia Long đến thời Minh Mạng. Lịch sử xây dựng thành Quảng Trị trải qua 3 giai đoạn:

Giai đoạn thứ nhất (1809 - 1832): bao gồm công việc di chuyển lỵ sở, quy hoạch và xây dựng. Theo sách “Đại Nam thực lục”: “Năm Gia Long thứ 8 (1809), dời dinh lỵ Quảng Trị đến xã Thạch Hãn” [1]. Địa điểm được chọn để đặt lỵ sở mới của dinh Quảng Trị nằm giữa hai làng Cổ Vưu (về sau gọi là Trí Bưu) và Thạch Hãn. Thời điểm cụ thể của việc xây dựng dinh lũy được bắt đầu từ trước tháng 3 (ÂL) năm 1809 với lực lượng nhân công tại chỗ và được đặt dưới sự điều hành của quan Lưu thủ dinh Quảng Trị là Nguyễn Cữu An.

Giai đoạn thứ hai (từ năm 1832 - 1837): có thể được coi là thời kỳ củng cố, nâng cấp và mở rộng quy mô dinh lũy. Sau hơn 20 năm tồn tại, tháng 11 năm Nhâm Thìn - Minh Mạng thứ 13 (1832), “vua cho rằng lỵ sở Quảng Trị địa thế rộng mà bằng phẳng, muốn được chỗ trung độ mà hiểm trở để dời tỉnh thành cho mạnh sự phòng thủ ở trong bờ cõi, bèn sắc sai quan tỉnh chọn xem chỗ nào đất hẹp thì tâu lên. Thự Tuần phủ là Nguyễn Tú tâu nói: “Xem khắp trong tỉnh đều không có chỗ đất nào tốt, mà lỵ sở cũ đất cao, nước ngọt, thấy ổn tiện hơn cả”. Vua dụ rằng: “Ta xem địa đồ hạt ngươi cũng không có chỗ nào có hình thế sông núi tiện lợi, vả lại tỉnh ngươi ở gần kinh kỳ, cốt người có tài là hơn cũng đủ làm cái hiểm trở vô hình rồi. Vậy nhân cũ sửa lại cũng không hại gì. Ngươi nên chiếu theo cách thức đồ bản của bộ đưa cho, tùy thế đo đạc nêu lên dự tính nhân công, vật liệu rồi tâu trình[2] .

Chính vì thế, năm Qúy Tỵ - Minh Mạng thứ 14 (1833), vua lệnh cho quan binh sở tại tiến hành nâng cấp và mở rộng quy mô thành Quảng Trị. Với ý thức coi việc “xây đắp tỉnh thành thực mong bền vững muôn đời” nên Minh Mạng đã “sai thự Tuần phủ Nguyễn Tú thuê dân làm việc. Lại nghĩ việc đắp thành là công trình to lớn, Tú khó mà kiêm làm cả. Vậy đặc cách sai trung quân Tống Phước Lương đi trông coi; cho thự Tả quân Nguyễn Văn Hiếu quyền lãnh ấn triện Trung quân”. Lần này, không rõ thời gian tiến hành trong bao lâu, nhưng quy mô của thành theo “Đại Nam thực lục” thì được mở rộng thêm cả về ba phía. “Mặt trước đắp rộng thêm 33 trượng, mặt tả và mặt hữu đều rộng thêm 16 trượng 5 thước, mặt sau để như cũ[3].

Như vậy, mặc dù về quy mô, cấu trúc tòa thành không được các tư liệu triều Nguyễn ghi lại nhưng có thể thấy rằng công trình Thành Quảng Trị được đắp dưới thời Gia Long chỉ là một thành đất có hình chữ nhật, kích thước nhỏ hơn nhiều so với lần đắp dưới thời Minh Mạng. Diện mạo cấu trúc của công trình thành Quảng Trị về cơ bản đã được xác lập kể từ sau lần đắp thứ hai. Với việc mở rộng kích thước của mặt trước bằng kích thước được mở rộng về cả hai bên đã làm cho chúng ta có thể hình dung diện mạo của tòa thành từ hình chữ nhật đã được tạo thành hình vuông. Trong lần mở rộng diện tích này, hệ thống hào thành xung quanh mới được đào hoàn chỉnh. Cũng trong năm 1833, chuẩn y lời tâu của quan Tuần phủ Quảng Trị, Minh Mệnh cho khai đào một đường hào dài 48 trượng nối từ góc đông bắc của thành thông với sông Thạch Hãn để thoát nước từ phía hệ thống hào thành vào sông Thạch Hãn [4].

Giai đoạn thứ ba (năm 1837): Đây là thời kỳ hoàn thiện và kiên cố hóa kiến trúc thành lũy cùng với việc xây cất hoàn chỉnh những công trình kiến trúc bên trong nội thành. Mùa xuân năm 1837, vua Minh Mạng chủ trương cho xây thành Quảng Trị bằng gạch.

Để thực hiện việc chỉ đạo xây dựng, triều đình Huế “sai thống chế doanh Tiền phong là Trần Văn Trí đi trông coi làm việc ấy, Ty Bộ Công và Khoa đạo mỗi bên một người, cùng trông coi việc làm”. Đồng thời, vua “chuẩn cho thuê bắt binh dân 4.000 người làm việc, hậu cấp tiền, gạo (binh mỗi tháng 2 quan, dân 4 quan, gạo đều một phương)” [5]. Vua Minh Mạng cũng là người luôn theo dõi tiến trình xây dựng và đã có những thái độ quan tâm đúng mức. Điều này không chỉ thể hiện ở việc vua thân hành ngự giá ra Quảng Trị để xem xét mà còn được cụ thể hóa bằng các chính sách cụ thể đối với dân binh làm việc trong thời gian tiến hành việc xây thành vào năm 1837: “Chuyến này xây đắp thành Quảng Trị, đã chuẩn cho binh lính đi làm ở đấy cấp mỗi tên mỗi tháng 1 quan tiền; dân thuê mướn thời mỗi tên mỗi tháng 3 quan. Nay lại nghĩ, một phen xây dựng, đụng đến sức binh dân cũng là việc bất đắc dĩ. Nay đương giữa hè nắng dữ, những người làm việc thực thấy vất vả. Vậy gia ơn cho phép chiếu cố dân binh hiện tại làm việc là bao nhiêu, cấp thêm cho mỗi tên 1 quan nữa. Lại lính từ khi bắt đầu khởi công đến nay, trừ tên nào lúc đi lúc không, hay làm việc chưa đủ 1 tháng, không cần bàn đến không kể, còn chiếu như vậy mà truy cấp từ đầu, cho đủ số binh lính mỗi tên 1 tháng 2 quan, dân phu mỗi tên 1 tháng 4 quan[6].

Việc xây đắp thành Quảng Trị lần này được huy động với số nhân công tương đối lớn (4.000 người). Lực lượng này phần lớn là dân binh trong địa hạt. Các loại nguyên vật liệu phục vụ cho việc xây thành như gạch, mật mía, vôi hàu đều được sử dụng chính từ nguồn của địa phương; một số loại khác như đá xây cổng thành thì được triều đình cho vận chuyển từ nơi khác đến. Và mặc dù quy mô không lớn so với nhiều tỉnh thành khác nhưng do được đặt dưới sự chỉ đạo và giám sát của triều đình nên chỉ trong vòng hai tháng thì công việc hoàn tất. Khi việc xong, “từ đổng lý đến binh dân, đều cho ăn yến một thứ, xem tuồng 3 ngày, Phái ty thuộc hai bộ Lễ, Công cùng ty Lý thiện đi đến trong coi việc khoản đãi, lại thưởng kỷ lục và tiền có thứ bậc[7].

Khối lượng công việc được Minh Mạng cho thực hiện trong lần xây đắp vào năm 1837 có thể nhận thấy về cơ bản là toàn bộ những gì vốn có như diện mạo kiến trúc của thành Quảng Trị trước khi bị bom đạn chiến tranh tàn phá năm 1972. Từ đó về sau hình dạng tòa thành không có gì thay đổi. So với nhiều tòa thành thuộc các trấn, tỉnh trong cả nước được vua Minh Mạng cho xây bằng gạch thì Thành Quảng Trị có thời gian tương đối muộn nhưng tiến trình thực hiện việc kiên cố hóa lại được thi công trong thời gian tương đối ngắn. Một mặt là do quy mô, cấu trúc của tòa thành không lớn, điều kiện thi công tương đối thuận lợi, lại được sự chỉ đạo trực tiếp của triều đình nên đạt hiệu quả cao; nhưng mặt khác, đồ bản thiết kế mà Minh Mạng chuẩn định với việc giản lược những chi tiết phức tạp không cần thiết cũng cho thấy ý đồ coi thành Quảng Trị là công trình phòng vệ quân sự chỉ ở mức thứ yếu so với ý đồ thiết lập một trung tâm hành chính, chính trị.

Từ khi thành được xây xong, các công trình kiến trúc bên trong như: hành cung, cột cờ, các cơ quan thuộc công đường Quảng Trị như Ty Phiên, Ty Niết, nhà Kiểm học, trại lính.... đã được lần lượt xây dựng trên cơ sở mở rộng, nâng cấp và kiên cố hóa những năm sau đó.

Với thời gian tồn tại của mình cho đến hiện nay, thành Quảng Trị có 27 năm được đắp tạm thời bằng đất, 135 năm được tạo dựng kiên cố bằng gạch (kể từ năm 1837 đến trước khi bị tàn phá vào năm 1972) và còn lại là quãng thời gian có cả sự hoang phế lẫn công việc phục hồi, tái thiết mới. Như vậy, việc chuyển trung tâm hành chính, chính trị của tỉnh Quảng Trị về Thạch Hãn và xây dựng bằng gạch kiên cố đã chứng tỏ ngoài những lí do về chiến lược quân sự, nhà Nguyễn đã rất chú ý đến vị trí của Thành Quảng Trị trong việc xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa đối với vùng đất nằm cạnh Kinh đô trong mối tương quan với kinh thành Huế và các tỉnh khác. Quá trình xây dựng của Thành Quảng Trị từ khi khởi công dưới thời Gia Long đến khi hoàn thiện dưới thời Minh Mạng kéo dài trong gần 28 năm (1809 - 1837) với 3 giai đoạn.

* Diện mạo kiến trúc qua các thời kỳ

Nói diện mạo kiến trúc thành Quảng Trị không chỉ là nói đến quy mô, cấu trúc, kỹ thuật xây dựng của tòa thành mà còn có cả những công trình đã được xây dựng bên trong. Tuy nhiên, với tư cách là một trung tâm hành chính địa phương cấp tỉnh, trải qua gần 150 năm dưới thời quân chủ phong kiến nhà Nguyễn và thời thuộc Pháp (1809 - 1954); hơn 18 năm dưới thời VNCH (1954 - 1972) Thành Quảng Trị (được đổi thành Đinh Công Tráng) do chịu nhiều biến động của hoàn cảnh lịch sử, xã hội nên các công trình kiến trúc đã có nhiều thay đổi về vị trí, chức năng cũng như phong cách kiến trúc.

Bộ phận kiến trúc chính tạo ra diện mạo tổng quát của Thành Quảng Trị là cấu trúc phòng thành. Nội thành là những công trình mang các chức năng khác nhau liên quan đến một trung tâm hành chính, được xây dựng và bố trí theo mô thức chung như nhiều tỉnh thành khác trong cả nước. Vì thế, nếu gọi theo đúng nghĩa thành quách với đầy đủ hai lớp thành là thành trong thành ngoài hay gọi theo cấu trúc của Kinh thành Huế gồm thành ngoại (tức Kinh thành) và thành nội (Đại nội - tức Hoàng thành và Tử cấm thành) thì Thành Quảng Trị chỉ có thành ngoài mà không có thành trong.

Cổng Tiền Thành cổ Quảng Trị (Ảnh Yến Thọ)

Thành ngoài, tức phòng thành Quảng Trị được xây bằng gạch, tổng thể có hình vuông. Thành được cấu trúc theo kiểu Vauban. Đặc điểm của thành luỹ cấu trúc theo kiểu Vauban là cả một hệ thống phức hợp các công trình kiến trúc liên quan chặt chẽ với nhau và mang tính phòng thủ rất vững chắc. Nhìn toàn cục nó bao gồm các bộ phận chính kể từ trong thành ra bên ngoài như sau: Luỹ, pháo đài, pháo đài góc, đoạn thành nối hai pháo đài, tường bắn, những pháo nhãn hay pháo môn, đường phòng hộ chân thành ngoài, hào thành… phương thức kiến trúc ấy xuất hiện trong điều kiện mà quân đội nhiều nước trên thế giới đã qua khỏi thời đại chiến đấu bằng cung tên và gươm giáo, họ đã được trang bị bằng các vũ khí bắn đạn được đẩy đi bằng thuốc súng [8].

Hệ thống phòng thành với thân thành xây cao và thẳng ở 4 mặt, 4 góc có 4 pháo đài nhô hẵn ra để từ đó có thể kiểm soát được các mặt thành. Ở chính giữa thành của 4 phía mở 4 cửa ra vào (Nam môn - cửa Tiền, Bắc môn - cửa Hậu, Đông môn - cửa Tả, Tây môn - cửa Hữu). Bao quanh là hệ thống hào thành. Dưới chân thành có đường phòng hộ. Trước mỗi cửa thành đều có một chiếc cầu xây vòm cuốn bắc qua hào thành nối bên trong với bên ngoài. Ngoài ra còn có một hào thành nối hệ thống hào thành với sông Thạch Hãn để thoát nước và chống úng khi mùa lũ.

Hào thành và pháo đài đông nam Thành cổ Quảng Trị (Ảnh Yến Thọ)

Theo sách “Khâm định Đại Nam Hội điển Sự lệ” thì Thành Quảng Trị có chu vi 489 trượng 6 thước, cao 1 trượng 3 thước, mở 4 cửa, 1 kỳ đài, hào rộng 2 trượng[9]. TheoĐại Nam nhất Thống chí” thì thành có chu vi là 481 trượng 6 thước, cao 1 trượng linh, bề dày 3 trượng, mở 4 cửa, hào rộng 4 trượng, 6 thước, sâu 8 thước trượng [10]. Còn theo sách “Đồng khánh dư địa chí lược” thì thành có chu vi là 489 trượng, 6 thước, cao 1 trượng, 7 tấc, dày 1 thước, 7 tấc. Thân thành 4 góc, 4 cửa. Hào rộng 8 trượng, 2 thước, sâu 5 thước [11]. Như vậy, kích thước thành Quảng Trị được chép trong các tài liệu của Quốc sử quán triều Nguyễn không thống nhất, thậm chí có sự chênh lệch nhau.

Từ năm 1992 đến nay, trong quá trình nghiên cứu và thực hiện dự án quy hoạch, đầu tư tôn tạo di tích thành Quảng Trị, qua tiến hành nhiều bước khảo sát, đo đạc lại kích thước thành ngoài với sự hỗ trợ đắc lực của các thiết bị kỹ thuật hiện đại và đã có những kết quả như sau: Chiều dài của tường thành phần thẳng tính từ mép ngoài (kể cả kích thước của tổng thành) ở mỗi mặt là 280m, ở 4 mặt là 1.220m. Chiều dài tường thành ở mỗi góc bầu (pháo đài) với 2 hai cạnh ở đỉnh góc, mỗi cạnh 95m, 2 cạnh tiếp giáp với thân thành ở mỗi góc bầu (pháo đài) với 2 cạnh ở đỉnh góc, mỗi cạnh 95m, 2 cạnh tiếp giáp với thân thành, mỗi cạnh 35m, có tổng cộng là 260m và ở cả 4 góc pháo đài là 1.040m. Từ đó, chu vi toàn thành sẽ là 2.160m, tổng diện tích toàn bộ thành Quảng Trị là 18,56 ha.

Án ngữ 4 góc thành là 4 pháo đài nhô hẵn ra phía ngoài, sắp xếp cân đối ở mỗi góc và xếp đối xứng nhau qua các cửa chính diện của chân thành mà dân địa phương quen gọi là “góc bầu”. Mỗi pháo đài có 4 cạnh bố trí theo dạng hình thoi. Hai cạnh của pháo đài nhô ra xếp gần như vuông góc với mặt thành thẳng có chiều dài mỗi cạnh là 35m. Hai cạnh còn lại xếp song song với 2 phía thân thành để tạo ra một góc nhọn của pháo đài có bề dài mỗi cạnh là 95m.

Trên toàn bộ chiều dài của tường thành bằng gạch, ở mặt ngoài, để tạo ra một mặt đứng nghiêng với độ khuynh 1/10, các viên gạch được xây theo kỹ thuật xếp kế tiếp nhau, lớp trên xếp lùi dần từ 2 - 3mm so với lớp dưới để thành những gờ gạch như những đường diềm mỏng chạy quanh thành mà chân người không thể tỳ vào đó để leo lên thành được. Ở mặt trong, tường gạch dựng đứng để làm ốp chắn tường đất dày ở bên trong đến đỉnh thành gạch còn hơn 1m để làm tường bắn. Dọc theo bờ tường, cách đều từng đoạn có chừa những khoảng trống để làm nơi đặt súng gọi là pháo nhãn hay pháo môn. Trên mặt thành đất chừa một khoảng khá rộng để binh lính quan sát, chiến đấu di chuyển trên thành. Dưới chân thành là các hầm chứa vũ khí. Chân choãi rộng, với độ dốc 300 binh sĩ có thể vận động lên xuống dễ dàng ở mặt trong của thành.

Trước mặt mỗi cửa thành, có một chiếc cầu được xây bằng gạch và kè chắn bằng đá vững chắc bắc qua hào thành, nối nội thành với bên ngoài. Bao bọc xung quanh là hệ thống hào thành tương đối rộng, khá sâu (chừng 3m) và luôn chứa đầy ắp nước. Bờ trong của hào thành chạy song song với các cạnh của tường thành, cách chân thành ở mặt ngoài 5m. Bờ ngoài của hào thành thẳng, nhưng ở mỗi mặt thành, hai đường bờ hào kéo từ phía cổng thành về 2 góc pháo đài lại chéo hình chữ V. Vì thế, bề rộng của hào thành ở mỗi mặt có kích thước không giống nhau tại mỗi vị trí. Hệ thống của hào thành được thông ra sông Thạch Hãn bằng một cái hói chạy theo hướng đông - tây, tính từ mép ngoài của hào thành ra đến bờ sông Thạch Hãn thì chiều dài con hói gần 250m, sâu 3,4m.

Không gian phía trước cửa Hữu Thành cổ Quảng Trị (Ảnh Yến Thọ)

Nội thành có nhiều công trình kiến trúc được xây dựng nhằm mục đích phục vụ trực tiếp cho việc ở và là việc của các cơ quan công đường thuộc bộ máy hành chính của tỉnh Quảng Trị. Công trình trọng yếu phải kể đến trước hết là Hành cung, nằm cách cửa Tiền chừng 500m. Khu vực này có hình vuông chu vi chừng 400m.

Hành cung là nơi dùng để vui nghỉ ngơi trong những lần ngự giá đi qua địa hạt. Cũng như nhiều Hành cung trong các tỉnh thành khác, Hành cung Quảng Trị là một công trình kiến trúc được xây dựng theo mô thức nhà rường, có 3 gian, 2 chái, mái lợp ngói âm dương, cột sơn son thếp vàng. Bên trong có ngai đặt trên bệ rộng, trên có tán rộng. Hai phía cửa hữu có hai công trình nằm quay mặt về nhà chính. Xung quanh xây bằng tường gạch chỉ để mặt trước 2 cửa ra vào. Có lẽ vì tính quy mô và vị trí trung tâm cùng với hệ thống tường gạch dày, xây cao bao bọc xung quanh nên được gọi là khu vực nội thành. Hành cung chỉ mở khi có vua đến hoặc các dịp làm lễ bái vọng, lễ thăng chức của các cơ quan đầu tỉnh ở Quảng Trị và các dịp tế lễ định kỳ trong năm.

Phía trước mặt Hành cung là Kỳ đài, có nền xây gạch, tạo thành 3 bậc; được dựng ở vị trí chính diện của mặt tiền. Chiếu theo quy định của Minh Mạng vào năm thứ 12 (1831) thì kỳ đài ở Thành Quảng Trị cũng như kỳ đài các trấn thành, “mặt sau rộng 3 trượng 2 thước, bên tả bên hữu đều rộng 2 trượng 7 thước, cột cờ cao 5 trượng 1. Tức là kỳ đài có hình chữ nhật, bề dài 13,5m, bề rộng 11,47m, cột cờ cao 21,25m.

Phía sau khu vực Hành cung là những cơ quan công đường, nơi ở và làm việc của các cơ quan lại thuộc bộ máy hành chính của tỉnh như: Dinh Tuần phủ, Dinh Án sát, Dinh Bố chính, Dinh Lãnh binh, Nhà kiểm học, Trại quân, Nhà bếp, Nhà Kho, Khám đường, Ngục thất. Các công trình kiến trúc này đều được xây dựng theo kích thước nhà công với mô thức thông dụng thời Nguyễn là kiểu nhà rường, có bộ khung chịu lực bằng gỗ, mái lợp ngói liệt, xung quanh xây tường gạch hoặc che chắn bằng ván gỗ.

Cửa Hậu Thành cổ Quảng Trị  (Ảnh Yến Thọ)

Những công trình kiến trúc thuộc nội thành Quảng Trị nhìn chung không mang tính bền vững cao và thường xuyên biến động, thay đổi để phù hợp với tính chất, công năng cũng như mục đích sử dụng theo từng thời kỳ. Sự ổn định tương đối về diện mạo kiến trúc nội thành Quảng Trị chỉ giới hạn trong khoảng thời gian từ khi hoàn chỉnh việc xây dựng (1837) đến trước khi người Pháp chính thức đặt chính quyền “bảo hộ” lên toàn bộ tỉnh Quảng Trị.

Sau khi cơ bản bình định được An Nam, người Pháp chọn khu vực xung quanh Thành Quảng Trị để xây dựng thị xã tỉnh lỵ, lấy Thành Quảng Trị làm tâm điểm của một trung tâm hành chính, chính trị thì một số công trình trong khu vực thành được người Pháp xây mới, làm theo diện mạo kiến trúc nội thành có sự thay đổi. Căn cứ vào bản sơ đồ về Thành Quảng Trị do Nguyễn Thứ vẽ năm 1889 [12], có thể biết được đến những năm cuối thế kỷ XIX, nội thành Quảng Trị ngoài những công trình được xây dựng dưới thời Nguyễn còn lại như: Hành cung, Dinh tuần phủ, Dinh án sát, Dinh Lãnh binh… vẫn do bộ máy quan lại của Quảng Trị thuộc triều đình An Nam sử dụng đã có thêm các công trình khác do người Pháp xây dựng như: đồn cảnh sát, nhà tù, nơi chỉ huy các binh chủng, cửa hàng lương thực, bưu điện, trạm xá, cửa hiệu, lò mổ gia súc, tiệm mì… Đến đầu thế kỷ XX, một loạt các công trình mới bên trong thành được chính quyền “bảo hộ” Pháp cho thiết lập thêm để phục vụ cho bộ máy cai trị; trong đó, điểm hình là công trình lao hầm bên trong khu nhà giam cũ, các kho vũ khí, nơi ở và nơi làm việc của các cơ quan chức quân sự, các sĩ quan, văn phòng chỉ huy trưởng, trại lính trinh sát, kho quân trang, xưởng may, xưởng đóng giày và sửa chữa vũ khí, kho gạo…

Dưới chế độ VNCH (1954 đến 1971), thành Quảng Trị được gọi là thành Đinh Công Tráng và đã có sự thay đổi cả về diện mạo lẫn chức năng. Trải qua các biến động xã hội trong năm 1945 và 9 năm chống Pháp, các công trình kiến trúc (xây dựng dưới thời nhà Nguyễn) ở bên trong hầu như đã bị chiến tranh và thiên tai tàn phá gần hết. Vì thế, chính quyền Sài Gòn đã biến nơi đây thành doanh trại quân đội, khu nhà ở cho binh lính (thuộc lực lượng địa phương quân của Sư đoàn I) cùng với sân vận động và nhà lao. Ở góc đông nam thành, bên cạnh việc tận dụng lại những nhà lao kiên cố được xây dựng từ thời Pháp, chính quyền miền Nam cho mở rộng thêm một số nhà tạm, phòng giam để giam giữ tù nhân. Đồng thời, trên cơ sở một số nền nhà cũ, những căn nhà với kết cấu cột, vì kèo sắt, mái lợp tôn đã được dựng lên để dùng làm nơi ở cho binh lính. Số quân đồn trú thường trực tại đây luôn có khoảng 2 đại đội (100 - 120 người) làm nhiệm vụ bảo vệ thị xã, tiếp viện và điều động cho các khu vực xung quanh khi cần thiết. Ngoài ra, để bảo vệ các sở bên trong, chính quyền Sài Gòn còn dựng các lô cốt ở những vị trí thích hợp trong và ngoài thành để canh gác. Trong thành Quảng Trị, ngoài các công trình phục vụ cho mục đích quân sự và bộ máy nhà nước của chính quyền tay sai còn có một số nhà dân.

Như vậy, diện mạo kiến trúc thành Quảng Trị là một tòa thành kiểu Vauban, chỉ có hệ thống phòng thành với tường thành xây gạch ở mặt ngoài và đắp đất ở mặt trong, 4 góc là 4 pháo đài, 4 mặt có 4 cửa cùng với một số công trình kiến trúc ở nội thành được xây dựng nhằm vào mục đích phục vụ cho bộ máy cai trị của tỉnh Quảng Trị qua các thời kỳ. Nếu như hệ thống phòng thành Quảng Trị kể từ khi hoàn thiện đến trước khi bị bom đạn phá hoại (1972) là có tính bền vững, ổn định cao, thì các công trình kiến trúc được xây dựng ở nội thành luôn thay đổi tùy theo tính chất, công năng và mục đích sử dụng theo từng thời kỳ lịch sử. Nếu như cấu trúc hệ thống phòng thành nặng về ý nghĩa của một công trình quân sự thực hiện việc phòng thủ trong bờ cõi theo ý đồ của người tạo lập thì các công trình kiến trúc nội thành thiên về diện mạo của một trung tâm hành chính. Có thể có nhiều cách tiếp cận khác nhau nhưng có thể nói rằng, thành Quảng Trị là một trung tâm chính trị, hành chính đúng nghĩa của tỉnh Quảng Trị.

2. Cuộc chiến đấu chống phản kích, tái chiếm bảo vệ Thành cổ 81 ngày đêm năm 1972

* Vị trí chiến lược của Thành cổ Quảng Trị

Dưới chế độ VNCH, thị xã Quảng Trị là một vùng nhỏ hẹp nằm giữa vùng nông thôn trù phú ở bờ Nam sông Thạch Hãn, có phố xá đông đúc và sầm uất. Có 3 đường chính đến thị xã: Quốc lộ 1A, đường 68 từ Thừa Thiên Huế ra và đường 64 từ Cửa Việt lên. Thị xã Quảng Trị là trung tâm tỉnh lỵ tỉnh Quảng Trị, nơi tập trung tất cả các cơ quan đầu não của chính quyền VNCH. Giữa lòng thị xã có tòa Thành cổ Quảng Trị, một kiến trúc thành luỹ được xây dựng vào thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn. Đây là nơi đóng các cơ quan đầu não về quân sự gọi là Tiểu ban quân sự Quảng Trị.

Với cuộc tiến công nổi dậy năm 1972 từ ngày 30-3 đến 1-5-1972, Quân Giải phóng đã tiêu diệt và phá hủy các tập đoàn phòng ngự, cụm cứ điểm mạnh từ Gio Linh, Cam Lộ, Đông Hà, Ái Tử, thị xã Quảng Trị, giải phóng tỉnh Quảng Trị. Quyết không thể để mất Quảng Trị, một tỉnh địa đầu giới tuyến miền Nam giáp miền Bắc XHCN, trong khi Hội nghị Paris lập lại hòa bình ở Việt Nam đang đến cần một giải pháp chính trị. Không cam chịu thất bại, Mỹ vội ra lệnh “Mỹ hóa” trở lại cuộc chiến tranh ở miền Nam, đưa các sư đoàn mạnh thuộc lực lượng tổng dự bị quốc gia trong đó có 2 sư đoàn thiện chiến đó là sư dù và thủy quân lục chiến cùng với xe tăng, máy bay, pháo hạm... chi viện tối đa, mở cuộc hành quân mang mật danh “Lam sơn 72” với âm mưu chiếm thị xã và các huyện Nam sông Thạch Hãn trước ngày 10-7; sau đó vượt sông Thạch Hãn đánh chiếm các huyện phía bắc.

Như vậy, xuất phát từ vị thế của một trung tâm hành chính, chính trị của một tỉnh nên khi cuộc chiến chống phản kích tái chiếm diễn ra, Thành cổ và thị xã Quảng Trị trở thành điểm mấu chốt để cả hai bên đặt cược vào trong một ván bài mang tính chính trị và ngoại giao hơn là quân sự. Phía Mỹ và chính quyền VNCH thì tập trung tái chiến bằng được vùng đất đã mất, trong đó mục tiêu chính là thị xã và Thành cổ Quảng Trị. Về phía Quân Giải phóng, để bảo vệ thành quả đã giành được, bảo vệ tỉnh địa đầu miền Nam mới được giải phóng nên phải tập trung lực lượng để quyết tâm giữa bằng được thị xã và Thành cổ, đánh tan cuộc phản kích. Tất cả đều hướng đến mục tiêu là tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất cho mình trên bàn đàm phán của Hội nghị Paris.  

* Chủ trương của Bộ quốc phòng và Quân đội nhân dân Việt Nam

Ngay khi quân đội VNCH lập phòng tuyến ngăn chặn hướng tiến công của Quân Giải phóng vào Thừa Thiên và bắt đầu mở cuộc phản kích tái chiếm, đêm 28-6-1972, Thường vụ Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh chiến dịch họp đánh giá kết quả đợt tiến công thứ 3 và nhận thấy đợt tiến công này không thành công, sức tiến công yếu, lại giảm sút nhanh chóng. Về phía quân đội VNCH thiệt hại không đáng kể nên có thể dùng 1 đến 2 trung đoàn ngăn chặn Quân Giải phóng ở hướng đường 1 và nhân lúc hậu phương chiến dịch của Quân Giải phóng sơ hở mở cuộc tiến công chiếm lại.

Từ kết luận đó, Thường vụ Đảng uỷ và Bộ tư lệnh chủ trương: Tiếp tục tiến công hiện nay có trọng điểm, có hiệu lực, đồng thời khẩn trương triển khai các lực lượng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, các đơn vị binh khí kỹ thuật để đánh bại cuộc hành quân của địch, chặn bằng được các cánh quân tiến công của chúng ở Trường Phước và Hải Lăng. Cụ thể: dùng một bộ phận lực lượng giữ vững các khu vực bàn đạp quan trọng ở Quảng Trị; đồng thời thực hành tiến công nhỏ và vừa tiêu hao một số bộ phận sinh lực địch, đánh mạnh vào hậu phương, kho tàng, sân bay và bắn máy bay địch, làm chúng rối loạn, sẵn sàng đánh địch đổ bộ đường không, đường biển để giữ vững vùng giải phóng [13].

Sau khi quán triệt quyết tâm của Quân uỷ Trung ương “chỉ có một khả năng giữ vững Quảng Trị, đánh bại cuộc hành quân của địch”, và nêu bật ý nghĩa chính trị, quân sự, ngoại giao của cuộc chiến đấu mới, Nghị quyết chỉ rõ: Quân VNCH đánh ra Quảng Trị (mục tiêu chủ yếu là thị xã và Thành cổ) nhằm phá cuộc tiến công của Quân Giải phóng, giữ Thừa Thiên Huế - một mặt trận mà quân VNCH coi là then chốt trên chiến trường miền Nam hiện nay, chiếm lại một khu vực đất đai và một số dân quan trọng mà Quân Giải phóng đã chiếm được trong thời gian qua để củng cố tinh thần quân VNCH và phục vụ âm mưu chính trị, ngoại giao của Mỹ. Đây là một trong những cố gắng cuối cùng để cứu vãn chính sách “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ, cứu vãn uy tín của Tổng thống Ních-xơn, phục vụ cho cuộc tranh cử tổng thống. Mưu đồ của quân VNCH rất lớn nên đã cố gắng tới mức cao nhất, tập trung lực lượng không quân, hải quân và lực lượng quân đội VNCH vào cuộc hành quân “tái chiếm” này [14].

Ngay sau khi Mỹ và chính quyền VNCH mở cuộc hành quân “tái chiếm”, đi đôi với việc chỉ đạo các cánh quân phản công, Thường vụ Quân ủy Trung ương đã chỉ đạo phương hướng chuyển dần vào tác chiến phòng ngự. Đối với thị xã và Thành cổ Quảng Trị, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ thị rất cụ thể về bố trí trận địa, binh lực, hỏa lực, xe tăng và tổ chức trận địa phòng không và pháo binh ở tả ngạn sông Thạch Hãn, đề phòng những tình huống có thể xảy ra [15].

Chỉ đạo chiến dịch có Bộ Chỉ huy chiến dịch do Thiếu tướng Lê Trọng Tấn - Phó Tham mưu trưởng Tư lệnh chiến dịch Trị - Thiên. Trung đoàn 48 chịu trách nhiệm chỉ huy chung các lực lượng trong thị xã Quảng Trị, Sở chỉ huy đặt ở Bích Khê, sau chuyển về An Mô, trong thành có sở chỉ huy nhẹ. Ngày 14-7, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định thành lập Ban Cán sự Đảng và Ban Chỉ huy bảo vệ Thành cổ Quảng Trị gồm: Tham mưu phó Bộ Tham mưu chiến dịch làm Chỉ huy trưởng, Cục phó Cục Chính trị chiến dịch làm Chính ủy. Các chỉ huy Trung đoàn bộ binh 48, Phó tỉnh đội trưởng, Chủ tịch Ủy ban quân quản Quảng Trị làm Chỉ huy phó. Cơ quan của Trung đoàn 48 làm cơ quan của Ban Chỉ huy, lấy Sở Chỉ huy cơ bản của Trung đoàn 48 làm Sở Chỉ huy của Ban Chỉ huy bảo vệ Thành cổ.

* Diễn biến và kết quả

Từ ngày 28-6 đến 3-7-1972, Mỹ và quân lực VNCH đã điều 4 sư đoàn bộ binh, 3 thiết đoàn xe tăng thiết giáp được hoả lực phi pháo chi viện tối đa đã ồ ạt đánh chiếm một số vùng rộng lớn từ Gia Đẳng, Linh Chiểu, Hải Lăng, điểm cao 28, 105B, Nam sông Nhùng, Nam Long Hưng, La Vang, áp sát thị xã và Thành cổ Quảng Trị. Trong khi đó, Quân Giải phóng đang từ thế tiến công phải điều chỉnh gấp đội hình trong điều kiện cơ động hết sức khó khăn bị phi pháo (kể cả máy bay chiến lược B52) đánh phá quyết liệt, lực lượng chuẩn bị bố phòng cho vùng mới giải phóng chưa đầy đủ, nên đã bị thiệt hại tương đối nặng (thế trận bị động, mất đất, mất dân). Trung đoàn 48, mặc dù được giao nhiệm vụ bố trí lực lượng chốt giữ Thành cổ và thị xã Quảng Trị nhưng đến ngày 6-7-1972, Trung đoàn mới tập trung và triển khai được lực lượng. Nhưng với quyết tâm sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Thành cổ và thị xã Quảng Trị, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương cùng quân và dân Quảng Trị chiến đấu kiên cường đẩy lùi các đợt tiến công của quân VNCH. 

Sau hơn 10 ngày mở cuộc phản kích tái chiếm, Mỹ và chính quyền VNCH quyết tâm cắm cờ lên tòa Thành cổ vào ngày 13-7, tức trước khi có cuộc gặp giữa phái đoàn VNDCH và Mỹ ở Hội nghị Paris sau nhiều tháng bị gián đoạn. Để thực hiện mục tiêu đó, quân VNCH đẩy nhanh tiến công vào các trận địa chốt của Quân Giải phóng ở vùng ven thị xã như Tri Bưu ở hướng đông bắc Thành cổ. Trên hướng đông nam tại chốt Ngã ba Long Hưng, Quân Giải phóng đã đẩy lùi được các đợt tiến công của quân dù nhưng trên hướng đông bắc quân VNCH đã chiếm được làng Tri Bưu, uy hiếp trực tiếp Thành cổ. Không bỏ lỡ thời cơ, Tướng Ngô Quang Trưởng ra lệnh cho quân dù: “Bằng cách gì, đêm nay cũng phải cắm được cờ trong Thành cổ[16]. Việc cắm cờ lên Thành cổ Quảng Trị trước giờ khai mạc Hội nghị Pari đã trở thành mục tiêu thôi thúc quân Mỹ và quân VNCH. Cũng từ đây nhiệm vụ phòng giữ thị xã và Thành cổ của quân giải phóng trở nên quyết liệt.

Xác định âm mưu của đối phương, tối 12-7, Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Tư lệnh chiến dịch, ra lệnh cho Trung đoàn bộ binh 48: “Đêm nay phải cố thủ giữ vững Thành cổ Quảng Trị, không được để một tên địch lọt vào”. Tiếp đó, điện số 915 của Quân ủy Trung ương: “Các đồng chí phải giữ Thành cổ bằng bất cứ giá nào[17]. Đúng như kế hoạch, tối 12-7, một bộ phận quân Dù đã theo cống ngầm vào Thành cổ để cắm cờ nhưng đã bị Quân Giải phóng chặn đánh. Không thực hiện được mục tiêu, quân dù đã lệnh cho các hướng phải tiếp tục tấn công cùng với pháo bắn phá dữ dội, sử dụng bom khoan có sức công phá lớn để phá hủy các bức tường thành, hầm ngầm, công sự của Quân Giải phóng để thực hiện ý định cắm cờ lên Thành cổ, nâng tổng số đạn pháo đánh phá khu vực Thành cổ Quảng Trị trung bình mỗi ngày 8.000 viên lên 15.000 viên. Cao điểm có ngày, quân VNCH bắn tới hơn 30.000 viên; sử dụng mỗi ngày từ 40-60 lần máy bay phản lực và phun chất độc hóa học, vừa thả bom khoan, bom hơi để phá tường thành, đánh sập hầm hào công sự của quân giải phóng; tăng số phi vụ B52 đánh phá mỗi ngày từ 30-40 lần chiếc lên 60-70 lần chiếc để chặn tiếp tế vào Thành cổ và đánh sâu vào hậu phương [18].

Với sức công phá lớn của bom, pháo đã gây nhiều thiệt hại cho Quân Giải phóng đang chiến đấu tại Thành cổ và thị xã Quảng Trị. Trước tình đó, Bộ tư lệnh chiến dịch tăng cường Tiểu đoàn bộ binh 4 của Trung đoàn 95 và Tiểu đoàn bộ binh 9 của Trung đoàn 64 vào thị xã cùng phối hợp với Trung đoàn 48.

Về phía quân VNCH, sau thất bại đợt 1 tấn công vào Thành cổ, 14 giờ ngày 14-7, sau khi được tăng lực lượng, quân dù cho một tốp biệt kích bí mật luồn theo những chỗ tường thành bị bom đạn phá vỡ, lẻn vào Thành cổ cắm cờ ở phía đông bắc nhưng đã bị các chiến sĩ Đại đội 14 hỏa lực của Trung đoàn 48 và các chốt của Tiểu đoàn bộ binh 3 địa phương Quảng Trị phát hiện, nổ súng tiêu diệt một số tên, số còn lại bỏ chạy.

Âm mưu tiến công ồ ạt vào thị xã và cắm cờ lên tòa Thành cổ trong đầu tháng 7 đã không thực hiện được, quân đội VNCH đã tăng cường mở các cuộc tấn công trên tất cả các hướng đẩy lùi thời gian cắm cờ đến ngày 18, rồi 27-7 nhưng các cuộc tấn công đó đã bị Quân Giải phóng chặn đứng, bị thiệt hại nặng. Để đánh lừa dư luận, tối 25-7, đài phát thanh Sài Gòn phát một bài tường thuật: Quân dù mũ nồi đỏ đang tràn vào chiếm được Thành Quảng Trị, họ đang chuẩn bị ngày mai long trọng làm lễ kéo cờ trong Thành cổ. Tiếp đó, 9 giờ ngày 26-7, quân VNCH tổ chức cắm cờ có cố vấn Mỹ, phóng viên báo chí để quay phim nhưng không phải ở Thành cổ mà là tại bức tường thành đổ của đình làng Trâm Lý (thuộc xã Hải Quy), cách thị xã 3km về phía đông. Tuy nhiên, trò lừa bịp này ngay từ đầu đã bị lực lượng trinh sát của Quân Giải phóng phát hiện nên đã huy động pháo binh bắn vào vị trí tổ chức làm quân VNCH hoảng loạn, vội vã lên máy bay trực thăng bỏ chạy.

Như vậy, sau 1 tháng mở cuộc tiến công, quân dù đã không thực hiện được kế hoạch mà ngược lại còn bị thiệt hại nặng. Bản tin của hãng AFP ngày 27-7-1972 đưa tin: “Trong cuộc hành quân tái chiếm Quảng Trị quân Dù Nam Việt Nam đã bị đánh quỵ. Trong những ngày chiến đấu đẫm máu tại đây, mỗi ngày họ chết 150 người, các cố vấn Mỹ cho rằng thật chẳng đáng để bám lấy cái thị xã Quảng Trị nguy hiểm ấy làm gì, lính Dù đã bị thương vong quá nặng, họ cần có thời gian để tổ chức và hồi phục lại[19]... Ngày 27-7, tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân khu 1 hạ lệnh đưa các lực lượng quân dù ra củng cố, giao nhiệm vụ cho Sư đoàn Thủy quân Lục chiến đảm nhiệm tiếp tục tấn công vào thị xã Quảng Trị.

Thủy quân lục chiến vào thay quân dù, nhanh chống đẩy mạnh chuyển hướng tấn công từ tiến công ồ ạt sang “lấn dũi” với cách đánh dùng hỏa lực đánh mạnh trước, dùng xung lực lấn dũi từng bước, củng cố chắc bàn đạp chiếm được, làm hầm kiên cố, đưa xe tăng vào chi viện cho bộ binh. Để thực hiện nhanh mục tiêu, Sư đoàn trưởng Sư đoàn Thủy quân lục chiến hạ lệnh cho Lữ đoàn 258 cùng sự hỗ trợ của Chiến đoàn 4 (gồm 1 trung đoàn bộ binh và 1 trung đoàn xe tăng, thiết giáp) phòng giữ phía sau, tấn công vào thị xã Quảng Trị từ 3 hướng: đông bắc (Tri Bưu, Hành Hoa), tây nam phối hợp với quân dù (La Vang, Tích Tường, Như Lệ, Cầu sắt, Đệ Ngũ, Bồ Đề), hướng bắc (An Tiêm, Nại Cửu, chợ Sãi) tạo thành ba gọng kìm tấn công vào thị xã và Thành cổ.

Lợi dụng cơn mưa bão đầu mùa vào cuối tháng 7, đầu tháng 8 gây khó khăn cho Quân Giải phóng, quân VNCH đã tiến vào được thị xã Quảng Trị và kế hoạch là đêm 7-8 sẽ tổ chức chào cờ tại Thành cổ nhưng đã bị Quân Giải phóng đánh chặn trên tất cả các hướng. Những địa điểm chốt quan trọng bao quanh Thành cổ như Bồ Đề, Đệ Ngũ, Tri Bưu, Hành Hoa... cả hai bên giành giật nhau và đang ở thế giằng co. Kết quả, quân VNCH đã không thực hiện được kế hoạch.

Giữa tháng 8, quân VNCH phải dàn trải lực lượng ra cánh đông và ven biển. Hơn nữa, sau những đòn thất bại tại thị xã, tinh thần quân lính bị giảm sút cần phải có thời gian để củng cố. Mặt khác, sự thôi thúc theo yêu cầu ngoại giao ở Hội nghị Paris không còn như hồi tháng 7. Do vậy, thời gian này chiến trường thị xã không diễn ra trận chiến nào lớn chỉ có những trận tập kích nhỏ nhưng với tinh thần “còn người còn trận địa”, dựa vào thế lực liên hoàn, từng chốt yểm trợ cho nhau, tích cực tập kích, phản kích nhỏ, ban ngày bị mất chốt thì ban đêm tổ chức tập kích chiếm lại. Chính vì vậy, Thành cổ và các con đường dẫn vào thành vẫn được giữ vững. Cuộc chiến bảo vệ Thành cổ thực sự ác liệt và tàn khốc nhất diễn ra từ cuối tháng 8 đến đầu tháng 9.

Thời gian này, về phía Quân Giải phóng bố trí lực lượng xung quanh Thành cổ gồm có: hướng bắc có Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 64, Tiểu đoàn bộ binh 2 của Trung đoàn 48, Đại đội bộ binh 45 của tiểu đoàn địa phương Quảng Bình. Hướng đông bắc Tri Bưu có Tiểu đoàn 6 bộ binh của Trung đoàn 95, Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 48. Hướng đông nam có Tiểu đoàn bộ binh 4 của Trung đoàn 95. hướng nam có Tiểu đoàn 8 địa phương Quảng Trị. Trong Thành cổ có Tiểu đoàn 3 địa phương Quảng Trị. Ngoài ra còn có đại đội hỏa lực của Trung đoàn 95, 1 phân đội chống tăng B72 của Sư đoàn 325, 1 đại đội công binh.

Về phía quân VNCH bố trí tại thị xã như sau: Tiểu đoàn 6 bố trí khu vực đông nam Thành cổ; Tiểu đoàn 2 bố trí từ ngã ba Long Hưng đến Đệ Ngũ Đông; Tiểu đoàn 1 từ ngã tư đường sắt đến Đệ Ngũ Tây; Tiểu đoàn 3 ở làng Tri Bưu, Hành Hoa, Đông bắc Thành cổ; Tiểu đoàn 8 làm lực lượng dự bị.

Đặc biệt từ cuối tháng 8 đến đầu tháng 9-1972, Quảng Trị gặp cơn mưa bão gây mưa lũ lớn, dài ngày, nước sông Thạch Hãn dâng cao tràn vào thị xã, làm ngập úng, sụt lỡ các trận địa, hầm hào của quân giải phóng, mưa lớn và dài ngày nên đạn dược, lương thực, thực phẩm bị ướt, đời sống sinh hoạt khó khăn, sức khỏe bộ đội giảm sút. Lợi dụng dụng tình hình đó, quân VNCH liên tục “lấn dũi” vào chiếm các trận địa của Quân Giải phóng, chiếm được các địa điểm chốt ở Bồ Đề, Đệ Ngũ, khống chế bến vượt - tuyến chi viện duy nhất cho thị xã bằng đường sông Thạch Hãn. Quân Giải phóng tổ chức nhiều đợt tấn công nhưng không phá được thế vòng vây. Đặc biệt, trong các trận đánh ngày 9 và ngày 10-9, Lữ đoàn 258 Thủy quân lục chiến tập trung cả 3 tiểu đoàn bộ binh, có xe tăng yểm trợ tiến công từ các hướng nam, đông nam và tây nam Thành cổ. Các lực lượng chốt của Quân Giải phóng đã đánh trả quyết liệt, hai bên giành giật nhau từng căn nhà, góc phố, nhất là các khu vực ở chùa Bà Năm, Ty cảnh sát, Thánh đường Thạch Hãn... ở hướng nam. Sau đợt tấn công này, cả hai phía đều có những thiệt hại nặng nhưng về phía quân VNCH vẫn chiếm ưu thế về binh, hỏa lực. Tiểu đoàn 4 của Trung đoàn 95 cũng bị thiệt hại lớn, trên 50 người hi sinh và bị thương nặng, cả Tiểu đoàn chỉ còn 7 người, đến tối 10-9, Tiểu đoàn 4 được lệnh rút ra củng cố. Trên hướng đông bắc, Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 48 kiên quyết ngăn chặn và phản kích địch, nhưng 1 trung đội Thủy quân Lục chiến đã lọt vào Thành cổ. Không để cho địch phát triển, Ban Chỉ huy bảo vệ Thành cổ lệnh cho Tiểu đoàn 3 bộ đội địa phương Quảng Trị lập tức phản kích, quân địch buộc phải tháo chạy ra khỏi thành. Nhiều trận chiến ác liệt diễn ra ngay dưới chân Thành cổ. Trên các hướng đông bắc, đông nam, nam đã được nối liền nên quân VNCH có điều kiện để hiệp đồng, chi viện cho nhau tiến công đồng loạt từ 3 hướng, gây cho Quân Giải phóng rất nhiều khó khăn, nhất là thiếu lực lượng cơ động để cùng các chốt phản kích, đơn vị nào cũng phải lo giữ chốt, không có lực lượng dự bị do tuyến chi viện duy nhất bằng đường sông gặp nhiều khó khăn vì nước sông Thạch Hãn dâng cao và bị pháo binh, thủy lôi phong tỏa.

Ngày 11-9, quân VNCH tiếp tục tiến công trên tất cả các hướng vào Thành cổ. Trên hướng đông nam, 6 giờ sáng đã có một bộ phận địch lọt vào thành,  Tiểu đoàn 3 bộ đội địa phương Quảng Trị xuất kích đánh bật chúng ra ngoài. Đến 12 giờ, đại đội địch tập trung nhảy vào thành, Tiểu đoàn 3 tiếp tục đánh đánh trả quyết liệt và liên tục phản kích, chúng bị thiệt hại nặng phải dùng hỏa lực chi viện và lui khỏi thành trước khi trời tối.

Mặc dù chiến đấu rất kiên cường nhưng trước sức ép của hỏa lực và bộ binh tấn công tập trung của quân lực VNCH, các chiến sĩ Quân Giải phóng buộc phải bỏ các địa điểm chốt bao quanh Thành cổ lui về giữ Thành. Với thế phòng thủ trong điều kiện nhiều bất lợi: Lực lượng bị tiêu hao nhiều, tình hình bị bao vây từ các phía, thời tiết mưa lũ, trong nội thành các công trình đã bị bom, pháo phá hủy, tường thành tuy cao và dày nhưng cũng đã bị đổ nát, không còn vật liệu để làm hầm hào, công sự, vũ khí đạn dược còn ít, chi viện rất khó khăn... nhưng các chiến sĩ quân giải phóng vẫn quyết tâm bám trụ giữ vững Thành cổ Quảng Trị chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, đẩy lùi được nhiều đợt tấn công của quân VNCH.

Ngày 15-9, các Lữ đoàn 258 và 147 Thủy quân Lục chiến tổ chức tiến công từ 3 hướng vào Thành cổ với sự chi viện trực tiếp của tất cả các loại hỏa lực pháo, cối, xe tăng, súng phun lửa... mở đợt tổng đột phá vào 2 góc thành đông nam và đông bắc và cổng thành phía nam. Đến 4 giờ ngày 15-9, một đại đội lính VNCH bí mật tập kích vào Sở Chỉ huy Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 48, chiếm góc đông bắc Thành cổ và từ hướng đông nam, tây nam áp sát vào chiếm góc thành phía nam. Trong suốt ngày 15-9, hai bên chiến đấu quyết liệt tại các góc tường thành. Tối 15-9, các lực lượng Quân Giải phóng phải lui sâu vào thành, quân VNCH đã kiểm soát được cổng thành phía nam, đưa 4 đại đội và 5 xe tăng vào củng cố các khu vực đã chiếm được từ góc đông bắc đến góc đông nam. Trong khi đó, về phía Quân Giải phóng, quân số hy sinh ngày càng nhiều, có ngày lên đến hơn 100 người, hỏa lực chi viện cho lực lượng chiến đấu ở thị xã cũng giảm dần, các đường tiếp tế qua sông đều bị quân VNCH chặn đánh, quân số chiến đấu mỗi đại đội chỉ còn 5-7 người, có những đại đội chỉ còn 3 người, tiểu đoàn còn 19 người, vũ khí không đủ chiến đấu, thông tin liên lạc bị gián đoạn. Theo kế hoạch tối 15-9, Trung đoàn 18 và đại đội xe tăng sẽ vào nhận nhiệm vụ hợp đồng nhưng vẫn chưa nhận được thông tin. Trước tình hình đó, 1 giờ ngày 16-9, Ban Chỉ huy quyết định cho các lực lượng còn lại tại Thành cổ và thị xã Quảng Trị rút về tả ngạn sông Thạch Hãn để bảo toàn lực lượng và triển khai bảo vệ vùng giải phóng. Đến 2 giờ ngày 16-9, đội hình còn lại của Quân Giải phóng cơ bản đã qua sông, kết thúc 81 ngày đêm chiến đấu kiên cường và hy sinh anh dũng.

Trong 81 ngày đêm chiến đấu chống phản kích tái chiếm, Thành cổ Quảng Trị với chu vi hơn 2.160m đã trở thành “túi bom” của quân lực VNCH với các loại  phương tiện chiến tranh, vũ khí hiện đại nhằm chiếm cho bằng được Thành cổ vì đây là địa bàn chiến lược, có thể tạo sức nặng “mặc cả” với ta tại Hội nghị Paris. Không thể thống kê được số bom đạn dội xuống mảnh đất này. Các nhà khoa học quân sự ước tính trung bình mỗi chiến sĩ Quân Giải phóng ở đây phải chịu trên 100 quả bom và 200 quả đạn pháo. Người ta ghi nhận được đêm 4-7-1972, pháo đài B52 Mỹ đã ném 4.000 tấn bom; ngày 31-7-1972, khoảng hai vạn quả đại bác cỡ lớn từ 105mm đến 203mm đã nã xuống khu vực thị xã Quảng Trị; ngày 25-7-1972, địch điên cuồng xả vào Thành cổ khoảng 5.000 quả đại bác [20].

Hàng ngày, tại Thành cổ như có mưa bom, mưa đạn pháo, địa thế lúc nào cũng rung chuyển như đang có động đất. Với một khối lượng lớn bom đạn ném xuống Thành cổ làm cho bốn dãy tường thành thành dày đến 12m cứ vỡ dần vì bom đạn và chấn động của mặt đất. Máu xương của các anh hùng liệt sĩ đã hòa vào lòng đất Thành cổ. Thế nhưng bom đạn đã không làm nao núng ý chí quyết tử với Thành cổ của những chiến sĩ quân giải phóng, hầu hết đều rất trẻ, tuổi mới mười chín, đôi mươi, là những tân binh, nhiều người trong số họ là học sinh, sinh viên các trường học miền Bắc tăng cường cho chiến trường. Các anh đã anh dũng bám trụ từng tấc đất của Thành cổ. Có ngày, các chiến sĩ Quân Giải phóng đã phải đánh phản kích từ 5-7 lần, có khi 13 lần. Cuộc chiến đấu ở đây diễn ra như một huyền thoại và cách đánh cũng vượt ra những quy ước thông thường với những tấm gương quả cảm. Nhiều chiến sĩ như Phan Văn Ba bị pháo làm nát một bàn tay vẫn xin ở lại chiến đấu; chiến sĩ Hán Duy Long dùng Trung liên kẹp nách truy kích diệt 58 tên địch, ba lần bị thương vẫn giữ vững trận địa... Ở đây khi giao chiến, Quân Giải phóng phải để lựu đạn xì khói trên tay mới ném, phải trèo lên tường cao ném xuống hoặc bò vào sát miệng hầm địch mà liệng...

Kiểm soát Thành cổ Quảng Trị là mục tiêu của cả hai phía như là một nổ lực to lớn - nơi biểu dương sức mạnh của mỗi bên nhằm phục vụ cho cuộc đấu tranh chính trị và ngoại giao đang đi đến một thời điểm quyết định [21].

Sau 81 ngày đêm chiến đấu oanh liệt, đánh phản kích tại Thành cổ và thị xã Quảng Trị, Quan Giải phóng và nhân dân Quảng Trị đã vượt qua mọi khó khăn, bền bỉ chiến đấu, phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, gan góc, táo bạo, dũng cảm, mưu trí. Chiến công ở Thành cổ Quảng Trị đi vào lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam những trang hào hùng đầy máu và lửa. Nghĩ đến Thành cổ, chúng ta nghĩ đến mảnh đất rực lửa chiến công và sự hy sinh cao quý của đồng bào và chiến sĩ cả nước trong 81 ngày đêm “cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

3. Qúa trình trùng tu, tôn tạo di tích Thành cổ Quảng Trị

Do phải gánh chịu một khối lượng bom đạn khổng lồ trong cuộc chiến chống phản kích tái chiếm bảo vệ Thành cổ và thị xã Quảng Trị 81 ngày đêm năm 1972 nên từ sau ngày đất nước giải phóng, Thành cổ Quảng Trị hầu như bị phá huỷ hoàn toàn, chỉ còn lại hình dạng hệ thống tường thành với một số đoạn tường xây gạch loang lỗ vết đạn, còn 2 cổng Tiền, Hậu chưa sụp đỗ. Bên trong thành, tất cả các công trình đều bị san phẳng thành bình địa. Toàn bộ diện tích của thành loang lỗ những hố bom, hố pháo và tiềm tàng vô số các loại bom mìn chưa nổ đe doạ cuộc sống của người dân. Nhăm 1986, Thành cổ Quảng Trị được công nhận di tích quốc gia, nhưng do điều kiện kinh tế còn khó khăn, đơn vị hành chính tỉnh chưa ổn định nên chưa có một đầu tư nào cho di tích. Thành cổ Quảng Trị vẫn ở trong tình trạng hoang phế, hệ thống hào thành bao quanh khu vực bị sụt lỡ, lòng hồ bị lấp cạn, cây cỏ hoang dại mọc um tùm. Một công trình duy nhất trong thành là lao xá cũng đã hư hại nặng nề. Di tích Thành cổ Quảng Trị bị xuống cấp nghiêm trọng, một địa danh ghi dấu một thời kỳ oanh liệt của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước dần dần trở thành một vùng đất hoang phế.

Trước tình hình xuống cấp nghiêm trọng của di tích, đầu năm 1992 Sở Văn hoá và Thông tin Quảng Trị đã phối hợp với Viện thiết kế qui hoạch đô thị và nông thôn hoàn thành bản dự án “Tôn tạo khu di tích lịch sử Cách mạng Thành Cổ Quảng Trị” và được Bộ Văn hoá - Thông tin đầu tư kinh phí thực hiện trùng tu tôn tạo di tích. Từ năm 1992 đến nay Thành cổ Quảng Trị đã được trùng tu tôn tạo chia làm hai giai đoạn.

Giai đoạn 1: Tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Thành cổ Quảng Trị với các công trình hoàn thành và đưa vào sử dụng: Đài tưởng niệm trung tâm; nhà bảo tàng; cổng Tiền và cầu bắc qua hào thành trước cổng Tiền; hệ thống hào nước xung quanh thành được nạo vét và kè bằng đá học; hệ thống đường chính và  đường nội bộ; hệ thống cây cảnh, cây bóng mát; hệ thống điện nước, hạ tầng. Các công trình được bảo tồn: di tích cổng Hậu, vết tích cổng Tả, Hữu, Lao xá, vết tích tường thành, hố bom... với tổng mức vốn đầu tư giai đoạn 1 là hơn 12 tỷ đồng.

Giai đoạn 2 với các hạng mục công trình đã hoàn thành: Phát lộ hệ thống tường thành; xây dựng hệ kênh mương dẫn nước từ mương thuỷ lợi đến hồ Thành cổ; nạo vét, vệ sinh mặt hồ thả hoa sen; xây dựng hệ thống lan can quanh hào thành; xây dựng lại 3 chiếc cầu bắc qua hào thành ở 3 cổng; bổ sung hệ thống chiếu sáng sân vườn trong và ngoài thành; xây dựng và các tạo hệ thống đường bao quanh thành với tổng kinh phí hơn 41 tỷ đồng. Hiện tại đang tiến hành nâng cấp Đài tưởng niệm trung tâm với tổng kinh phí 32,423 tỷ đồng.

Được sự quan tâm đầu tư của các cấp và chính quyền địa, hiện nay di tích Thành cổ Quảng Trị đã có nhiều thay đổi bên cạnh bảo tồn những yếu tố gốc còn lại sau chiến tranh, dự án còn trùng tu và xây dựng mới nhiều công trình tri ân tưởng niệm đáp ứng nhu cầu viếng thăm của hàng chục vạn lượt khách tham quan  trong và ngoài nước mỗi năm.

Hiện trạng di tích Thành cổ được cấu thành bởi hai nhóm công trình:

1. Các dấu tích mang yếu tố gốc được bảo tồn, trùng tu, phục hồi:

- Hệ thống cổng thành

- Hệ thống tường thành

- Hệ thống pháo đài

- Hệ thống cầu bắc qua hào thành

- Hệ thống hào thành

- Lao xá

- Chứng tích hố bom

2. Các công trình tôn tạo:

- Đài tưởng niệm trung tâm

- Nhà trưng bày

- Bia chiến tích sinh viên

Dự án trùng tu tôn tạo vừa bảo tồn những yếu tố gốc của di tích phần nào vẫn giữ được nguyên diện mạo Thành Quảng Trị đã góp phần quan trọng trong việc nghiên cứu Thành Quảng Trị nói riêng và hệ thống thành lũy dưới thời Nguyễn nói chung; bảo tồn yếu tố gốc cùng với sự đổ nát và loang lỗ của những vết nứt, vết bom đạn nhằm minh chứng cho cuộc chiến tàn khốc và sự phá hủy của bom đạn qua đó giúp khách tham quan hiểu hơn về sự chiến đấu và hy sinh anh dũng của các chiến sĩ Quân Giải phóng trong 81 ngày đêm chiến đấu bảo vệ thị xã và Thành cổ Quảng Trị.

Xác định bảo tồn yếu tố gốc là công việc quan trọng của di tích, do vậy trong những năm qua cơ quan quản lý di tích đã và đang chú trọng. Về phía đơn vị trực tiếp quản lý đã thường xuyên tiến hành làm vệ sinh, phát quang cỏ dại và những loại cây leo... nhằm hạn chế tối đa sự xâm thực làm phá hủy hệ thống tường thành và các công trình bảo tồn. Tuy nhiên, đây chỉ là những biện pháp tạm thời, về lâu dài để bảo tồn được những yếu tố gốc còn lại tại di tích Thành cổ đặc biệt là hệ thống tường thành đã trải qua thời gian, chịu tác động của bom đạn làm sụt lún, nứt vỡ cùng với sự ảnh hưởng của thời tiết nhất là mùa mưa lũ sẽ tác động rất lớn đến công trình. Do vậy, cần nghiên cứu tìm ra những phương án tối ưu cho quá trình bảo tồn. 

Các công trình xây dựng mới trong đó hai công trình trọng tâm là Đài tưởng niệm trung tâm và nhà trưng bày là điểm nhấn của toàn bộ di tích Thành cổ. Đài tưởng niệm trung tâm được xây dựng dựa trên ý tưởng về triết lý âm - dương, quan niệm về nhân sinh quan, vũ trụ quan; về mối quan hệ giữa người sống và người chết... đã để lại những ấn tượng sâu sắc cho khách tham quan đến với di tích Thành cổ. Đài tưởng niệm trung tâm từ một công trình mới xây dựng nhưng trở thành biểu tượng thiêng/cõi thiêng trong không gian thiêng Thành cổ. Cùng với Đài tưởng niệm trung tâm, nhà trưng bày Thành cổ với hơn 115 ảnh tư liệu, 155 hiện vật, 21 khoa học phụ nhằm giới thiệu rõ hơn về những vấn đề liên quan đến di tích bao gồm quá trình xây dựng Thành; chiến dịch giải phóng Quảng Trị; cuộc chiến chống phản kích tái chiếm bảo vệ thị xã và Thành cổ 81 ngày đêm năm 1972; công tác tri ân sau ngày đất nước giải phóng... Từ khi nhà trưng bày đưa vào sử dụng, khai thác cho đến nay đã phần nào đáp ứng nhu cầu tìm hiểu về di tích. Trong thời gian sử dụng, đơn vị quản lý đã quan tâm tiến hành chỉnh lý, bổ sung nhiều hiện vật quan trọng, đặc biệt là hiện vật di vật liệt sĩ tiêu biểu như bức thư của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh và di vật của liệt sĩ Lê Binh Chủng đã để lại nhiều xúc động và ấn tượng cho khách tham quan.

Ngoài ra, các công trình trùng tu tôn tạo khác như: Nhà đón tiếp, nhà dịch vụ, hệ thống lan can, kè hào thành; hệ thống cầu bắc qua hào thành; hệ thống đường nội bộ; hệ thống cây xanh, cây bóng mát; hệ thống điện chiếu sáng; bãi đỗ xe... đã đưa vào sử dụng, khai thác đáp ứng nhu cầu đón khách tham quan. 

Với những kết quả đạt được trong quá trình trùng tu tôn tạo di tích Thành cổ Quảng Trị đến nay về cơ bản các công trình đã phát huy tính hiệu quả trong việc giới thiệu, học tập, tham quan, suy ngẫm và là nơi tôn vinh, tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ với những chiến công bất tử; đồng thời là nơi giáo dục truyền thống Cách mạng cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Hiện nay, hàng năm tại di tích Thành cổ đã đón tiếp hàng chục vạn lượt khách trong nước và quốc tế đến tham quan, tưởng niệm. Thành Cổ Quảng Trị trở thành một cõi thiêng trong không gian thiêng của sự kiện 81 ngày đêm, nơi hành hương tưởng niệm trong các tour DMZ, “Du lịch hoài niệm về chiến trường xưa và đồng đội”.

Di tích Thành Cổ Quảng Trị là một trong 07 di tích thành phần thuộc di tích “Thành cổ Quảng Trị và những địa điểm lưu niệm sự kiện 81 ngày đêm năm 1972” được Thủ tướng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt theo quyết định số 2383QĐ-TTg ngày 09/12/2013.

Nguyễn Thị Thanh Bình

 

[1] Quốc sử quán triều Nguyễn (1962). Đại Nam thực lực chính biên. Tập 4. Nxb Sử học, Hà Nội, tr.12.

[2] Quốc sử quán triều Nguyễn (1962). Đại Nam thực lực chính biên. Tập 4. Nxb Sử học, Hà Nội, tr.12.

[3] Quốc sử quán triều Nguyễn (1962). Đại Nam thục lục chính biên. Tập 11. Sđd, tr. 30.

[4] Nội các triều Nguyễn (1993). Khâm định Đại hội điển sự lệ. Tập 13. Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Viện sử học. Nxb Thuận Hoá, Huế, tr.215.

[5] Quốc sử quán triều Nguyễn (1962). Đại Nam thực lực chính biên. Tập 4. Sđd, tr.70.

[6] Nội các triều Nguyễn (1993). Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ. Tập 9. Viện khoa học xã hội Việt Nam - Viện Sử học. Nxb Thuận Hoá, Huế, tr. 548

[7] Quốc sử quán triều Nguyễn (1962). Đại Nam thực lực chính biên. Tập 4. Sđd, tr.70

1 Đỗ Văn Ninh (1983). Thành cổ Việt Nam. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.129.   

[9] Nội các triều Nguyễn (1993). Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ. Tập 13. Nxb Thuận Hoá, Huế, tr.144

[10] Quốc sử quán Triều Nguyễn (1992). Đại Nam nhất thống chí. Tập 1. Nxb Thuận Hoá, Huế, tr 117

[11] Quốc sử quán Triều Nguyễn. Đồng Khánh dư dịa chí lược. Dịch giả Văn Thanh, bản đánh máy lưu tại Bảo tàng tỉnh Quảng Trị.

1 Quốc sử quán Triều Nguyễn (1962). Đại Nam thực lục chính biên. Tập 18. Nxb Sử học, Hà Nội, tr.296.

[12] L Cadièreet H.Cosserat (1914). Les Postes militares du Quang Tri et du Quang Binh en 1885 - 1890. (Các đồn binh ở Quảng Trị và Quảng Bình từ 1885 - 1890). B.A.V.H. Số 1, tr.14. 

[13] Bộ quốc phòng - Viện lịch sử quân sự Việt Nam. “Tổng kết tác chiến bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972”. Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006, tr. 25 - 26.

[14] Nguyễn Bình (2003). “Thành Quảng Trị trong tiến trình lịch sử dân tộc”. Tlđd, tr. 153.

[15] Tài liệu mật, Điện số 118 (10-7) 144 (18-7) 173-174, 233 ĐK (8-72) tại Ban sử LLVT Quảng Trị. Dẫn theo: Nguyễn Lộc (1990), “Phong trào đấu tranh cách mạng của quân và dân Quảng Trị năm 1972”, lưu tại Phòng tư liệu, khoa Lịch sử, Trường Đại học khoa học Huế, tr. 92.

[16]  Bộ quốc phòng - Viện lịch sử quân sự Việt Nam. Tổng kết tác chiến bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972. Sđd, tr. 47.

[17] Bộ quốc phòng - Viện lịch sử quân sự Việt Nam. Tổng kết tác chiến bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972. Sđd, tr. 47.

[18] Bộ quốc phòng - Viện lịch sử quân sự Việt Nam. Tổng kết tác chiến bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972. Sđd, tr. 51.

[19] Bùi Công Ái - Trần Tiến Hoạt. Quảng Trị 1972. Sđd, tr. 119 - 120.

[20] Sở Văn hóa Thông tin - Bảo tàng Quảng Trị (2004). “Di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh tỉnh Quảng Trị”. Sở VHTT Quảng Trị xuất bản, tr. 66.

[21] Trương Minh Tuấn (2012).Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - biểu tượng sáng ngời về ý chí quyết chiến, quyết thắng của dân tộc Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”. Tỉnh ủy Quảng Trị - Bộ quốc phòng. 40 năm giải phóng tỉnh Quảng Trị và chiến đấu bảo vệ Thành cổ (1972 - 2012). Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 492.

XEM THÊM VỀ THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ VÀ NHỮNG ĐỊA ĐIỂM LƯU NIỆM SỰ KIỆN 81 NGÀY ĐÊM NĂM 1972
5. DI TÍCH BẾN SÔNG THẠCH HÃN 7. DI TÍCH CHỐT NGÔ XÁ TÂY 6. DI TÍCH CHỐT LONG QUANG 4. DI TÍCH TRƯỜNG BỒ ĐỀ 3. DI TÍCH NHÀ THỜ TRI BƯU