Cập nhật ngày: 6/2/2021 1:45:06 AM
Người Bru - Vân Kiều và Tà Ôi là hai tộc người thuộc bộ phận dân tộc thiểu số của tỉnh Quảng Trị. Họ cư trú rải rác trên dãy Trường Sơn từ miền tây Quảng Bình cho đến miền tây tỉnh Thừa Thiên - Huế và tập trung nhất là ở hai huyện Hướng Hóa và Đakrông của tỉnh Quảng Trị.
Do sinh sống ở vùng rừng núi hiểm trở nên trong cấu trúc làng bản của họ có những điểm khác biệt so với các dân tộc khác. Mỗi cộng đồng người như thế lập thành một bản riêng. Chủ yếu họ sống ở ven suối, ven sông, dọc theo các thung lũng nhỏ hoặc triền đồi, chân núi. Họ sống phân tán và biệt lập thành các điểm tụ cư rất xa nhau và nói chung là khó liên lạc với nhau. Từng dân tộc ở một mức độ nào đó đã hình thành những khu vực cư trú rộng (huyện) và hẹp (xã) riêng biệt.
Trong tổ chức xã hội cổ truyền của mình, người Bru - Vân Kiều, Tà Ôi chỉ biết đến một tổ chức gần gũi là vil, vel hay val. Trong một chừng mực nào đó thì vil, vel hay val tương ứng với khái niệm làng của người Việt. Hiểu theo nghĩa rộng, tổ chức vil, vel hay val gồm: Khu cư trú, các nguồn nước, khu canh tác, khu săn bắt, chăn nuôi, khu rừng cấm (rừng ma) và khu rừng đặt miếu thờ.
Sự hình thành làng bản ở người Bru - Vân Kiều, Tà Ôi thường bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố: gần nguồn nước sinh hoạt; thuận lợi cho việc tiến hành sản xuất nương rẫy và các hoạt động săn bắt thú rừng, hái lượm lâm thổ sản; khả năng cung cấp chất đốt… và nhất là có sự đồng ý của thần linh. Tuy nhiên, trong những tiêu chí chung đó, vấn đề phòng thủ luôn được đặt lên hàng đầu, điều này được thể hiện rõ trong bố cục làng bản truyền thống. Có thể nói làng của người Bru - Vân Kiều, Tà Ôi là dạng đặc trưng cho loại hình “làng phòng thủ”. Mặt khác, xuất phát từ những yêu cầu của điều kiện sinh sống nơi núi rừng hiểm trở, sự tồn tại độc lập giữa thiên nhiên hoang dã cũng như xác lập sự hiện diện của mình trước những cộng đồng cùng tộc hay khác tộc có thể dẫn đến sự va chạm bất cứ lúc nào trong quy luật sinh tồn, buộc người Bru - Vân Kiều, Tà Ôi phải có sự lựa chọn, ứng xử thích hợp. Trong điều kiện đó, bên cạnh việc quần cư thì nhu cầu cấp thiết đặt ra là phải có một thiết chế mang tính cộng đồng thể hiện cho sự hợp nhất cả về vật chất lẫn tinh thần, củng cố tình đoàn kết, tạo nên một tập thể lớn mạnh, bền chặt, đồng lòng, tương trợ, đùm bọc trong sản xuất, trong chiến đấu cũng như trong sinh hoạt.
Phạm vi đất làng được xác định và được xem là bất khả xâm phạm đối với các làng khác. Trong phạm vi đó, người dân mỗi làng tiến hành du canh và khi cần thiết thì dời làng. Do tính chất nương rẫy quy định nên làng bản của người Bru - Vân Kiều, Tà Ôi thường không ổn định, không mang tính chất vĩnh cửu. Do cuộc sống du canh, du cư nên làng thường hay bị dời từ nơi này đến nơi khác. Những trường hợp đặc biệt như khi trong làng xảy ra chuyện bất trắc (bệnh tật, hiện tượng chết xấu và đau ốm nhiều..) thì dù làng bản có được xây dựng khá lâu nhưng họ vẫn phải chấp nhận việc dời chuyển đến một vùng đất mới.
Quy mô to nhỏ, tính chất lâu bền cũng như vị thế và hình thể các làng bản mỗi nơi, mỗi dân tộc đều có những nét riêng khác nhau. Tuy vậy, làng bao giờ cũng được định vị theo tập quán cổ truyền với những tiêu chuẩn, yêu cầu vừa mang tính tập quán, vừa mang tính quy định (luật tục). Cấu trúc làng bản truyền thống đặc trưng là thường được bố trí theo hình tròn, tứ giác, chữ U, hay hình nan quạt nằm ven các triền sông, suối. Làng bản truyền thống của người Bru - Vân Kiều và Tà Ôi thường là sự quần tụ của khoảng trên dưới 100 nhân khẩu; số nhà trong làng thường có từ 10 đến vài chục nóc. Khoảng cách giữa hai làng thường là khá lớn, đôi khi là những dòng khe, con suối hay dãy núi cao được dùng làm ranh giới tự nhiên để xác định.
Từ cảm nhận ban đầu dần dần mảnh đất nơi họ cư trú, sinh sống đều được mang một cái tên riêng để phân biệt bản này với bản khác trong vùng. Cách đặt tên bản chủ yếu là dựa trên trực giác tự nhiên nhưng khi đã được mang tên thì bản làng đó mãi mãi có được một danh xưng vững chắc không ai thay đổi được. Vì thế mà người Vân Kiều rất tự hào và tôn trọng cái tên của làng bản mình. Mỗi bản dựng một miếu (gọi là var) ở đầu làng để thờ, miếu này rất linh thiêng. Cái var đó coi như là cửa ngõ của bản làng. Mỗi bản làng có một xuất vil (chủ làng) để cai quản dân làng và đứng ra tổ chức các lễ nghi cúng bái.
Cách đặt tên làng bản của người Bru - Vân Kiều và Tà Ôi thường dựa vào những tiêu chí sau: Gắn với tên gọi về loại cây như: Vil Sari (Bản Cây Đa); Vil Pôong (Bản Khoai)…; gắn với tên gọi các khe suối: Vil Paling (bản khe Paling); Vil Apai (bản khe Apai)…; gắn với tên gọi của các dòng sông: Hóq Karông (nguồn Rào Quán); Hóq Parlăng (nguồn Ba Lòng)…; gắn với tên gọi của các ngọn núi: Kóh Plăng (bản Động Tranh); Kóh Tarích (bản Động Tri)…; gắn với các đặc điểm địa hình: Vil Chuah (Làng Cát); Vil Dual (Làng Đồi)…; gắn với tên gọi nhờ sự vay mượn ngôn từ của người Kinh: Vil Traiq Kaq (bản Trại Cá); Vil Daq ban (bản Đá Bàn)…1.
Cũng có trường hợp không có tên cụ thể mà đặt tên bản làng theo cảm tính, do đó, rất nhiều tên làng bản vô nghĩa không mang một nội dung gì. Tuy nhiên, dù tên vô nghĩa nhưng sự bình đẳng về danh xưng vẫn có giá trị thiêng liêng và cũng là những mỹ từ được lựa chọn như: Vil Tamêl; Vil Parngiau…1.
Sau này khi xã hội biến đổi và trải qua nhiều bước ngoặt lịch sử, tên các bản làng mới lập cũng được đặt những tên rất Việt như Phú An, Phú Thành, Vĩnh Hà…
Trong một làng, cách bố trí các nhà ở (đung) đều nhất thiết phải hướng tới ngôi nhà chung của làng. Những làng không có ngôi nhà chung thì thay vào vị trí ấy là một khoảng sân rộng có một cây cột hoặc một nhóm cây cột dùng làm lễ đâm trâu và dùng làm nơi sinh hoạt hội hè của làng. Những ngôi nhà trong làng phải đảm bảo một nguyên tắc là các đòn nóc không được đâm vào nhau. Theo cấu trúc truyền thống, xung quanh làng thường được bao bọc bằng hệ thống hàng rào được dựng rất kiên cố, vững chắc nhằm chống thú dữ, trộm cắp, giặc dã. Hàng rào được làm từ những cây gỗ, tre, lồ ô… chôn xuống đất và được kết nối với nhau bằng dây mây, dây rừng. Hàng rào thường cao từ 1,5m đến 2m. Khi rào làng, đồng bào làm một cổng chính để ra vào và một cổng phụ để dùng khi trong làng xảy ra chuyện bất trắc. Cổng làng được chọn về hướng thuận lợi nhất cho việc đi lại, không nhất thiết phải tuân thủ nghiêm ngặt theo một quy định nào. Trong truyền thống tộc người, dù khu vực lựa chọn làm nơi cư trú có địa hình nhỏ hẹp, hiểm trở hay rộng lớn thì cấu trúc ngôi làng cũng không thay đổi. Hình ảnh này một thời đã là biểu trưng cho sức mạnh cố kết tộc người của đồng bào dân tộc Bru - Vân Kiều và Tà Ôi nói riêng cũng như đồng bào các dân tộc cư trú trên dãy Trường Sơn nói chung.
Trong giới hạn đất làng bao giờ cũng phải có khu vực làm nghĩa địa chung. Khu nghĩa địa là vùng đất có cây cối um tùm xanh tốt, nằm về phía tây của làng. Trong khu vực đó, cư dân không được đốt rừng làm rẫy, các thành viên trong làng nếu chết bình thường (chết tốt) như già cả, ốm đau chết tại nhà… sẽ được chôn tại đây. Khu rừng này không ai đi lại và cũng không đến gần để săn bắn hay làm rẫy.
Vil, vel hay val là tổ chức xã hội đã có từ lâu đời của người Bru - Vân Kiều và Tà Ôi. Đó là cộng đồng của những người có quan hệ huyết thống hay khác huyết thống cùng sinh sống, làm ăn trong một phạm vi đất đai nhất định. Trước đây mối quan hệ trong một vil là mối quan hệ huyết thống. Hiện nay, trong một vil, bên cạnh quan hệ huyết thống đã xuất hiện quan hệ láng giềng, số lượng dòng họ trong một vil ngày càng được tăng lên.
Vil được tập hợp bởi một hay nhiều mu/yã (trưởng họ). Vil là một đơn vị xã hội cơ bản và duy nhất của các dân tộc thiểu số nên nó cũng là một đơn vị tự quản về mọi mặt, được đặt dưới sự điều hành của một bộ máy quản lý theo luật tục đã được hình thành và tồn tại qua nhiều thế hệ. Đứng đầu là một aryay vil hay xuất vil (chủ làng). Người chủ làng thường là người của dòng họ gốc cha truyền con nối qua nhiều thế hệ, có tài năng và đức độ, có uy tín và am hiểu về phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng… của làng. Người chủ làng cũng là người có tài về ngoại giao, quân sự và sản xuất; chịu trách nhiệm điều hành và quản lý mọi công việc của làng; ông cũng là người quản lý đất đai, tổ chức sắp xếp làng bản. Với uy tín và vai trò như vậy nên chủ làng luôn được mọi người trong làng kính trọng, coi như người thay mặt Yàng (trời) cai quản dân làng.
Giúp việc cho chủ làng có thủ lĩnh quân sự (tarleng) là người trực tiếp chỉ huy các dân binh trong các chiến trận. Trong thời bình, thủ lĩnh quân sự có nhiệm vụ đôn đốc dân làng làm hàng rào làng và cùng các chiến binh tham gia bảo vệ trật tự trị an của làng.
Thầy cúng, thầy mo (mojao hay nokru) là những người rất có uy tín trong xã hội của người Bru - Vân Kiều và Tà Ôi. Họ được dân làng kính trọng, vị nể, thêm cả sợ hãi. Họ vừa là người làm nhiệm vụ tôn giáo, vừa là người chữa bệnh cho dân làng.
Hội đồng già làng: Hội đồng này không hạn chế về mặt số lượng và có nhiệm vụ làm tư vấn cho các chủ làng. Hội đồng già làng bao gồm những người trưởng mu, trưởng yã (trưởng họ) có khi còn có chủ đất (xuất kute) - người có công tìm ra vùng đất mới cho làng cùng tất cả những người cao tuổi trong làng. Những người già làng này nhờ vào kinh nghiệm sống nên có nhiều hiểu biết về những luật tục, lễ nghi… Hội đồng này là một tổ chức không thể thiếu được trong bộ máy tự quản của các làng bản của người Bru - Vân Kiều và Tà Ôi. Họ rất được mọi người coi trọng và coi như rường cột trong gia đình, trong làng cũng như ngoài làng.
Tóm lại, sẽ còn rất nhiều vấn đề khác cần đề cập khi nhắc đến bản làng các tộc người thiểu số: kinh tế, tổ chức xã hội, sinh hoạt văn hóa của cộng đồng cư dân… nhưng theo chúng tôi, cấu trúc làng truyền thống cùng những đặc trưng riêng có của mỗi một tộc người sẽ là nguyên nhân và cũng là hệ quả đầu tiên trong cung cách ứng xử của cộng đồng với môi trường cư trú. Và tất nhiên, phải từ những kinh nghiệm, cách ứng xử của mỗi cá nhân, mỗi đơn vị cư trú cụ thể mới có thể biểu hiện thành tri thức của cả một nhóm tộc người hay tộc người./.
Hoàng Ngọc Thiệp
Tài liệu tham khảo.
1. Hồ Chư. Việc cư trú và đặt tên làng bản của người Bru - Vân Kiều. Cửa Việt số 16 (01/1996).
2. Nguyễn Xuân Hồng. Hôn nhân - gia đình - ma chay vủa người Tà Ôi, Cơ tu, Bru - Vân Kiều ở Quảng Trị - Thừa Thiên - Huế. Sở VHTT Quảng Trị. 1998.
3. Nguyễn Quốc Lộc (chủ biên). Các dân tộc ít người ở Bình Trị Thiên. Nxb Thuận Hóa - Huế. 1984.
4. Đỗ Đức Lợi. Văn hóa tộc người Tà Ôi. Nxb Văn hóa dân tộc. Hà Nội. 2009.
5. Viện Văn hóa Thông tin. Tiếp cận văn hóa nghệ thuật miền Trung. Huế. 2004.
HỘI NGHỊ VIÊN CHỨC, NGƯỜI LAO ĐỘNG NĂM 2024
THÔNG BÁO XÉT TUYỂN VIÊN CHỨC SỰ NGHIỆP NĂM 2023
TẬP HUẤN KIỂM KÊ, SƯU TẦM, TƯ LIỆU HOÁ DI SẢN VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG
Bộ Văn hóa ra Quyết định đưa vào danh mục Văn hóa phi vật thể Quốc gia: LỄ HỘI ARIÊU PIING CỦA NGƯỜI TÀ ÔI (PA CÔ) huyện Đakrông, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị.
ĐOÀN ĐẠI BIỂU CẤP CAO TỈNH SÊ KÔNG, NƯỚC CHDCND LÀO THĂM DI TÍCH ĐỊA ĐẠO VỊNH MỐC
HOẠT ĐỘNG ĐOÀN THANH NIÊN HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 76 NĂM NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SỸ
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI VÀ ĐOÀN CÔNG TÁC VIẾNG THĂM DI TÍCH LỊCH SỬ TỈNH QUẢNG TRỊ
ĐOÀN ĐẠI BIỂU CẤP CAO TỈNH CHAMPASAK, NƯỚC CHDCND LÀO THĂM DI TÍCH ĐỊA ĐẠO VỊNH MỐC
ĐOÀN LÃNH ĐẠO TỈNH QUẢNG TRỊ DÂNG HƯƠNG, TRI ÂN CÁC ANH HÙNG LIỆT SĨ TẠI DI TÍCH QUỐC GIA THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ
HỌP BÀN PHƯƠNG ÁN TRÙNG TU TÔN TẠO DI TÍCH QUỐC GIA ĐÌNH LÀNG HÀ THƯỢNG
THÔNG BÁO DANH SÁCH THÍ SINH ĐẢM BẢO ĐIỀU KIỆN DỰ TUYỂN