Thông tin khoa học
VÀI NÉT VỀ NÔNG NGHIỆP CỦA NGƯỜI VIỆT QUẢNG TRỊ XƯA

Cập nhật ngày: 4/23/2020 8:51:37 AM

Nền nông nghiệp ở nước ta nói chung luôn chịu sự chi phối của địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu, nguồn nước và địa cư; nền nông nghiệp Quảng Trị vẫn nằm trong quy luật chung ấy. Hệ thống canh tác truyền thống của người Việt chủ yếu là dựa vào khai thác các tài nguyên thiên nhiên bằng cách tổ chức các hoạt động sản xuất phù hợp với các điều kiện môi trường bên ngoài. Bằng sức lao động và những công cụ cầm tay, người nông dân với kinh nghiệm tích lũy từ đời này sang đời khác đã từng bước tìm ra những phương pháp phù hợp với mùa vụ và điều kiện đất đai, khí hậu thời tiết mỗi vùng. Ở đồng bằng ven các sông Thạch Hãn, Hiếu, Bến Hải, Ô Lâu... phần lớn trồng lúa nước, làm vườn. Vùng gò đồi, trung du trồng cây công nghiệp, hoa màu, làm lúa khô, làm vườn. Vùng ven biển trồng màu (chủ yếu là khoai, môn, dưa) xen kẽ lúa và cây chắn cát. Một số nơi đã hình thành vùng chuyên canh lúa, lạc, đậu, tiêu, chè, khoai, sắn... Tính đa dạng của hệ thống canh tác không chỉ được thể hiện trong cùng một diện tích mà còn ở cơ cấu cây trồng.

1. Tình hình ruộng đất và chính sách nông nghiệp

* Tình hình ruộng đất

Với chủ trương xây dựng xã hội lấy nông nghiệp làm gốc nên các triều đại phong kiến luôn tổ chức cho dân khẩn hoang nhằm tận dụng triệt để ruộng đất, không để hoang hóa.

Văn bản đầu tiên có nói đến khẩn hoang ở Quảng Trị có từ năm 1075, nhà Lý mộ dân đến lập làng ở châu Minh Linh 1. Sau đó, dân nghèo các vùng Thanh Nghệ vào khẩn hoang lập làng sau năm 1307 ở Châu Thuận.

Năm Hồng Đức thứ 16 (1485) vua Lê Thánh Tông xuống chiếu khẩn hoang “phàm chỗ ven núi ven biển bỏ hoang chưa khai khẩn hết, thì các viên phủ, huyện phải đi khám thực, đôn đốc dân khai khẩn cày trồng” 2. Tờ chiếu đó đã có tác dụng lớn đối với việc khẩn khoang lập làng ở vùng Thuận Hoá. Chỉ nhìn vào hai số liệu thống kê cách nhau trên 50 năm trong thế kỷ XV, cũng thấy được hiệu lực của tờ chiếu này.

Vào thời thuộc Minh (1414 - 1425) Phủ Tân Bình và Thuận Hoá có 106 xã (Tân Bình 37 xã, Thuận Hoá 79 xã) số hộ 3.602, số dân: 10.401 người.

Vào thời Hồng Đức (1470 - 1479) Tân Bình, Thuận Hoá có 8 huyện, 4 châu, 732 xã, tức gấp gần 7 lần số xã thời thuộc Minh. Vào năm 1490 lúc định bản đồ toàn quốc thống kê được ở Quảng Trị có 312 xã trong đó:

 Huyện Vũ Xương có 53 xã, Hải Lăng có 75 xã, Châu Minh Linh có 63 xã, châu Sa Bôi có 68 xã, châu Thuận Bình có 53 xã. Đó là một sự thừa nhận thành quả lớn lao trong việc khai hoang lập làng ở Quảng Trị vào thế kỷ XV.

Dưới thời các chúa Nguyễn, chính sách khẩn hoang còn đẩy mạnh hơn trước, đã tận dụng mọi khả năng lao động và đất đai có thể canh phá được; như năm 1527, Chúa Nguyễn Hoàng đã đánh bại đám tàn quân Mạc do tướng Lập Bạo chỉ huy 60 binh thuyền ở sông Thạch Hãn, hàng trăm tù binh, hàng binh của Mạc được đưa lên khai khẩn vùng đất Cồn Tiên lập nên 36 phường thuộc ổng Bái Trời (Bái Ân) 3, hình thành nên các làng xã trù phú vùng tây Gio Linh ngày nay.

Năm 1669, Chúa Nguyễn khuyến khích dân khai khẩn ruộng hoang, cho trưng làm ruộng tư vĩnh viễn, xã dân không được tranh chiếm gọi là bản bức tư điền. Chúa Nguyễn đặt chức Ty Nông Sứ để trông coi, khuyến khích nông nghiệp và bỏ thu thuế phần ruộng đất mới khai phá 5. Lê Quý Đôn hết sức ca ngợi chính sách khai hoang dưới thời các chúa Nguyễn 6.

Theo Lê Quý Đôn, tổng số ruộng đất mới khai phá trong 8 huyện của xứ Thuận Hoá đến năm Giáp ngọ (1774) là 1.510 mẫu, 3 sào, 3 thước 9 tấc.

Riêng ruộng tư của các họ do canh phá lâu đời hoặc tự mua lấy cũng rất nhiều, gồm 4.700 mẫu trong đó:

Huyện Đăng Xương: 1.143 mẫu 7 thước.

Huyện Hải Lăng: 1.190 mẫu 9 sào 2 thước 2 tấc.

Huyện Minh Linh: 2.406 mẫu 10 thước 8 tấc 7.

Nếu kể ruộng đất ở Thuận Hoá từ đầu thế kỷ XV đến năm 1770, chưa đầy 300 năm, diện tích tăng thêm 167.000 mẫu ruộng 8.

Dưới thời Minh Mạng, vào năm 1836, triều đình Huế ban đặc ân cho dân Quảng Trị khai hoang nội tỉnh: cấp tiền, nông cụ, thóc giống cho những ai có nguyện vọng khai hoang nơi cư trú, thu hoạch xong trả lại cho nhà nước phần vốn đã vay, còn bao nhiêu được hưởng.

Chính sách khẩn hoang được thực hiện qua nhiều thời kỳ khác nhau gắn liền với sự ra đời của nhiều thôn làng cùng nguồn gốc, tổ quán như các làng thượng, hạ, trung, xã, phường, thượng nguyên... (Cam Lộ thượng, Cam Lộ hạ, Cam Lộ phường..., An Thái xã, An Thái phường)... Nhiều làng khai hoang thành lập muộn mang tên đầu chữ Tân (Tân Định, Tân Độ, Tân Mỹ, Tân Hưng, Tân Trúc, Tân Tường...) phản ánh những chặng đường đấu tranh chinh phục, khai phá đất tự nhiên lập thêm nhiều thôn làng ở Quảng Trị.

Ngoài khẩn hoang nội tỉnh, nhân dân Quảng Trị đã góp phần quan trọng trong việc khai phá vùng đất mới phía nam, như canh phá đất Thăng Hoa, Tư Nghĩa vào thời Hồ đầu thế kỷ XV, cả vùng đất Quảng trong thời gian sau đó Theo bia “Thần đạo” của Lê Hiến Tông (1498 - 1504) cho biết: “Bây giờ ở Quảng Nam nhiều chỗ chưa khai khẩn, vua xuống chiếu cho biền dân Thuận Hoá được tự do khai phá”  9. Sau đó, những người dân vùng Tân Bình, Thuận Hóa (trong đó có Quảng Trị) tham gia khai khẩn, mở đất vùng Nam bộ, với những địa danh còn lưu dấu như Mỗi Xoài, Bà Rịa thế kỷ XVII, rồi Đồng Nai, Gia Định với một hào khí mở đất một thuở:

“Làm trai cho đáng nên trai

Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng tường”

* Chính sách nông nghiệp

Năm 1307, khi tiếp quản đất Thuận Châu, nhà Trần đã ban cấp ruộng đất cho dân và thu thuế trong 3 năm. Tư liệu ít ỏi đó cho chúng ta hình dung về một hình thức sở hữu về chế độ ruộng đất ở vùng đất mới về với Đại Việt, trong đó, chế độ công điền, công thổ 10 là chủ yếu.

Đến giữa thế kỷ XVI, khi viết cuốn “Ô Châu cận lục”, Dương Văn An có ghi một chi tiết đáng chú ý về ruộng đất vùng Thuận Hoá thời Lê - Mạc “trong công điền có cả tư điền” 11. Tình trạng tư điền đã phát triển mạnh trong các thế kỷ sau đó, dẫn đến việc chấp chiếm, tranh đoạt khiến nhà nước nhiều lần tổ chức đo đạc nắm ruộng thực trưng để đánh thuế và phân cấp cho dân được yên nghiệp.

“Đại Nam thực lục tiền biên” ghi chép “Năm 1586, vua Lê sai Hiến sát sứ Nguyễn Tạo vào Quảng Trị khán, đo đạc các loại ruộng đất thực canh để thu thuế. Chúa Tiên Nguyễn Hoàng một mặt tiếp đón nồng hậu, mặt khác sai quan các phủ huyện làm sổ địa bạ giao cho Tạo đem về12.

Năm 1618, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên lại tổ chức đo đạc ruộng dân (tức ruộng công làng xã) “để thu thuế, dân mới hết tranh nhau, mọi người đều yên nghiệp13.

Năm 1669, chúa Nguyễn Phúc Tần cho đo đạc lại ruộng tư để thu thuế, vì nông dân nhiều người chiếm canh ruộng lậu mà không chịu nộp thuế. Để bảo đảm nghĩa vụ hài hòa, nhà nông xuất thóc nuôi binh lính mà binh lính xuất lực bảo vệ nhà nông. Ruộng đất từ đó được đo đạc chia làm 3 bậc theo hai vụ mùa thu và mùa khô để thu thuế. Còn ruộng công chia đều cho dân cày cấy và nộp tô. Nếu có người khai khẩn rừng hoang mà cày thành ruộng thì cho trưng làm ruộng tư (gọi bản bức tư điền) cho cày mãi mà nộp thuế riêng, xã dân không được tranh chiếm. Từ đó, nhân dân hết mối tranh kiện yên phận làm ăn, về sau ruộng khẩn (ruộng tư) ngày mỗi nhiều lại đặt Ty Nông trông coi việc thu thuế 14.

Về ruộng công, ngoài ruộng dân (ruộng công làng xã), ở Quảng Trị có các loại ruộng sau: Tư điền: sử liệu cho biết vào năm 1693, cấp cho Tham khán Trần Văn Lễ 100 mẫu tư điền ở xã Phú Kỳ huyện Minh Linh 15.

Quan đồn điền và quan điền trang được đặt từ năm 1680, để cấp cho huân thích và qúy thần và các tướng có công làm ngụ lộc (từ 2,5 mẫu đến 10 mẫu), còn bao nhiêu cho dân cày mướn đến mùa thu hoạch để sung việc chi dùng cho Nội phủ 16.

Quảng Trị là nơi tập trung nhiều quan đồn điền hơn cả, thống kê các huyện như sau:

Huyện Đăng xương: 9 xã: 1.143 mẫu 7 thước (trừ đất mạ, đất thổ cư, đất hoang là 40 mẫu 6 sào 6 thước không nộp thuế).

Huyện Hải Lăng: 6 xã: 1.190 mẫu 9 sào 2 thước 9 tấc (trừ đất mạ, mương nước, đất cát, đất hoang 81 mẫu 6 sào 10 thước không nộp thuế).

Huyện Minh Linh: 6 xã: 2.406 mẫu 10 thước 8 tấc (trừ đất mạ, kênh ngòi, đất nước lở, đất hoang 111 mẫu 3 sào 7 thước không nộp thuế).

Tổng số quan điền ở Quảng Trị 4.750 mẫu chiếm 73% số quan điền trong toàn xứ Thuận Hóa (6494 mẫu) 17.

Lê Qúy Đôn có ghi chép về chính sách ruộng đất các chúa Nguyễn như sau: “Họ Nguyễn trước lấy ruộng công làng xã làm ruộng nhà nước là theo lệ nộp thóc tô chứa ở kho vựa sở tại, không cấp cho quan viên làm ngụ lộc, tướng thần lại bộ hộ giữ sổ sách thu nộp, lấy quan điền trang và quan đồn điền làm của tư, cho dân cày cấy và thuê người cày cấy, mỗi kì sai người coi gặt cho thuyền chở về sung vào kho Nội trù (nhà bếp trong cung) cấp ngụ lộc cho người họ và thần hạ đều lấy ở đây” 18.

Chúa Nguyễn lập kho ở Thạch Hãn để chứa thóc tô hai huyện Hải Lăng và Đăng Xương, có lính thuyền khang nhất 30 người coi giữ; kho Lai Cách ở huyện Minh Linh để chứa thóc tô huyện Minh Linh có lính An Nhất 33 người coi giữ 19. Năm 1680, lập thêm kho Trương Xá của huyện Đăng Xương (nay là làng Trương Xá, xã Cam Hiếu, huyện Cam Lộ) và kho Tân An của huyện Minh Linh để tăng sức chứa thóc tô của nhà nước 20.

Mặc dù các chúa Nguyễn có nhiều biện pháp mở rộng và duy trì ruộng công nhưng trên thực tế không ngăn chặn được nạn chấp chiếm, mua bán ruộng công. Bởi thế, vào ngày 8 tháng 6 năm 1776 chính quyền họ Trịnh đóng ở Thuận Hoá ra biểu thị 8 điều cho dân, trong đó ở điều khoản thứ nhất là: “Dù ruộng công đã bán bất cứ thời gian nào, qua bao nhiêu chủ, đều chiếu theo văn khế chuộc về chia đều cho dân cày cấy, không được đem bán nữa. Ai không tuân thì người mua người bán đều phải tội21.

Chính sách phân chia ruộng đất, ngày xưa theo phép “chu quan” chia sản vật 5 nơi: Rừng núi, sông chằm, cồn gò, bờ bãi, đồng bằng và đất trưng để đóng thuế, phân biệt 12 thứ đất theo từng loại giống để dân cày cấy 22.

Dưới thời Tây Sơn, nhà nước cho đo đạc lại ruộng đất lập các sổ địa bạ cho các làng xã, đẩy mạnh khai hoang, ngăn chặn nạn tranh chấp, chiếm đoạt ruộng đất, mở rộng công hữu nhất là ruộng công làng xã.

 Đầu triều Nguyễn năm Gia Long thứ 9 (1810) nhà vua hạ lệnh làm lại địa bạ tất cả các xã (thôn, làng), tịch thu loại ruộng quan điền trong thời Tây Sơn làm quan điền quan trại cho dân cày thu thuế 23. Nhưng do tô thuế nặng nề nên vào thời Minh Mạng chuyển các quan điền quan trại thành ruộng công làng xã, phân cấp cho dân làng cày cấy. Trường hợp năm 1824, Minh Mạng quyết định trao gần 500 mẫu quan đồn điền ở các xã Cổ Lũy, Vinh Quang, Hạ Lang, Lễ Môn thành ruộng đất cày.

Lý do chuyển thành ruộng công làng xã cũng như trường hợp chuyển quan đồn điền ở các xã Nhĩ Hạ 151 mẫu 6 sào 11 thước xã Kỳ Trúc (đều thuộc huyện Minh Linh) là 80 mẫu 6 sào vì “không có người lĩnh canh, làm ruộng đất bỏ hoang” 24.

Năm 1827, tiếp tục chuyển giao 332 mẫu 8 sào 8 thước quan đồn điền ở xã Trung Đan, huyện Đăng Xương và 238 mẫu 3 sào 2 phường Mỹ Tá và Kỳ Trúc, huyện Minh Linh thành ruộng công làng xã vì lý do “nhân dân thưa ít, cày cấy không xuể, nơi gần bên cạnh cũng không chịu lãnh canh” 25.

Ruộng công làng xã 3 năm chia lại một lần cho dân đinh từ 18 tuổi trở lên, có chính sách ưu tiên cho quan viên chức sắc trong việc nhận ruộng.

Biện pháp bảo vệ ruộng đất công của nhà Nguyễn chỉ có hiệu lực ở Quảng Trị là một trong 2 tỉnh có tỷ lệ ruộng đất công nhiều nhất so với cả nước.

Năm 1819, Quảng Trị có 17.200 dân đinh, canh tác trên 56.500 mẫu ruộng công tư 26.

* Các loại đồn điền

Đồn điền là một tổ chức kinh tế - xã hội có nguồn gốc ngoại nhập được Việt Nam hoá và có tác dụng tích cực trong lịch sử. Vào thời nhà Minh đô hộ, để giải quyết nạn thiếu lương thực nhà Minh lập các đồn điền, sử dụng binh lính, chủ yếu là ngụy quân để sản xuất lương thực tại chỗ, ngay các vệ, sở và xung quanh đồn luỹ của chúng. Ở 3 vệ: Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá quan quân 3 phần, 7 phần chinh thủ, còn ngụy quân 6 phần làm đồn điền còn 4 phần chinh thủ. Quân đồn điền mỗi năm nộp 18 thạch luá. Đây là hình thức tước đoạt ruộng đất sẵn có của nhân dân bằng sức lao động của ngụy quân để nuôi sống bọn thống trị nên không có tác dụng về phát triển sản xuất nông nghiệp. Đến năm 1481, sau khi mở rộng lãnh thổ đến phía nam Quy Nhơn, vua Lê Thánh Tông mới ban chiếu đặt các sở đồn điền với mục đích “là để hết sức làm ruộng, rộng nguồn tích trữ cho nhà nước. Cả nước lúc đó có 43 sở đồn điền trong đó có đồn điền Triệu Phong27.

Dưới thời các chúa Nguyễn, sử liệu có ghi về sở đồn điền ở huyện Đăng Xương, ruộng hạ (vụ chính) 48 mẫu sai Thuyền Tân Nhất coi gặt, thu thóc để giống một phần đem về nộp một phần

Lúc quân Trịnh vào chiếm đóng Thuận Hoá, năm 1776, Phạm Nguyễn Du làm Hàn lâm viện kiểm thảo có dâng tờ khai trình bày cách cai trị ở Thuận Quảng, có đề nghị: “nên ban ơn để cứu dân xiêu tán, mộ dân làm đồn điền tại chỗ để giảm bớt sự vận tải lương thực28.

Trong khi đó ở đàng ngoài, đồn điền bị bãi bỏ từ năm 1756. Dưới thời vua Nguyễn, các đồn điền ở Quảng Trị được dân sự hoá và được giảm tô thuế cho dân như các năm 1820, 1822, có lệnh giảm thuế đồn điền ở huyện Hải Lăng theo lệ công điền. Đồn điền ở huyện Kỳ Lâm, huyện Minh Linh giảm theo lệ tam đẵng ruộng tư và đồn điền ở xã Minh Lương, huyện Minh Linh theo lệ ruộng công điền.

Vào đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp thực hiện chính sách khai thác thuộc địa lần thứ 2, chúng đã nhắm vào các vùng đất đỏ ở dọc đường 9, Gio Linh, Vĩnh Linh để lập đồn điền nhưng không phải trồng lúa bóc lột địa tô theo phương thức phong kiến mà trồng các cây công nghiệp như cà phê, chè, tiêu... làm công trả lương theo phương thức tư bản chủ nghĩa. Dọc đường 9 có các đồn điền Ala, Ôpơri, Rôme, Poalan, Lavan... Pêcađa ở nguồn Rào, Lêca, Bocđôđúc... diện tích đồn điền lên tới 6.878 ha. Riêng tên thực dân Loadi đã chiếm 250 mẫu ruộng và 300 mẫu đất ở Vĩnh Linh để lập đồn điền 29.

Các loại đồn điền ở Quảng Trị ra đời trong hoàn cảnh khác nhau và có tác dụng nhất thời trong một giai doạn lịch sử nhất định, nhưng đã để lại bài học về trình độ và phương thức sản xuất, kinh nghiệm thăm dò tài nguyên đất đai và cây giống gieo trồng cho các thế hệ mai sau.

2. Về thuỷ lợi

Ở vùng Bắc Quảng Trị có hệ thống thủy lợi cổ của cư dân tiền Đại Việt. Người dân lợi dụng khe suối ở vùng cao kè đá lấy nước để uống và tưới tiêu. Khi người Việt vào lập làng đã tận dụng nguồn nước này, nhưng quan trọng hơn về đào sông, vừa để tiện việc đi lại vừa có nguồn nước để dẫn thủy nhập điền. Rất nhiều kênh ngòi, sông hồ được đào và nạo vét khơi thông tạo nên mạng lưới thuỷ lợi chằng chịt ở Quảng Trị luôn được các triều đại phong kiến quan tâm.

Năm 1404, nhà Hồ sai đào kênh Sen từ Tân Bình đến Thuận Hoá, xác định là thuỷ đạo nội điạ quan trọng nối Quảng Bình với Quảng Trị, nhưng bị bùn cát phun lên không đào được đành thôi. Khi Lê Thánh Tông dẫn quân chinh phạt Chiêm Thành (1471) cũng cho binh sĩ đào kênh Sen, để tiện đường đi lại, nhưng sau đó bị cát đùn lên làm tắc nghẽn lộ trình. Năm 1668, Chúa Nguyễn Phúc Tần theo dấu cũ cho khai kênh Hồ Xá, chúa đích thân đôn đốc dân 3 huyện Đăng Xương, Hải Lăng, Minh Linh (cả tỉnh Quảng Trị hồi bấy giờ) khơi đào, nhưng chỉ mấy tháng cát lại bồi lấp, bàn hạ lệnh cho dân dọc kênh tùy thế mà khơi đào, theo lệ thường hàng năm 30.

Tháng 5 năm 1681, chúa Nguyễn Phúc Tần cho đào kênh Trung Đan, chúa đích thân ra xem 31. Năm 1693, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, lại cho đào kênh Trung Đan 32. Tháng 8 năm 1681, chúa Nguyễn Phúc Tần cho đào kênh Mai Xá sai dân hai huyện Đăng Xương và Hải Lăng đào từ Mai Xá đến quán Nhĩ Hạ trong một tháng thì xong, khách buôn đi lại tiện lợi. Lại sai đo chỗ đất đào kênh hết bao nhiêu trừ ngạch thuế cho xã Mai Xá và Lâm Xuân 33.

Tháng 11 năm 1686, chúa Nguyễn Phúc Tần lại cho đào kênh Hà Kỳ, chúa đích thân ra xem. Dừng chân ở phủ cũ Tân An, chúa có ý định chọn đất đắp phủ mới. Vì đất này địa thế eo hẹp và ở kề bên sông. Năm 1703, chúa Nguyễn Phúc Chu, sai ngoại tả Tôn Thất Diệu và văn chức Trần Đình Thuận đốc suất lính đắp kè kênh Hà Kỳ từ xã Lai cách đến Thuỷ Liên, phàm 5 sở tiện việc vận tải, sau một tháng thì xong 34.

Dưới thời quân Trịnh, vào năm 1775, Bùi Thế Đạt sai cai Lưu và cai Mỹ khơi đào sông ở xứ Quán Tháp và Ông Đốc để thông đường vận tải với Minh Linh; bắt dân hai huyện Đăng Xương và Hải Lăng mỗi xã nộp tiền khoán 25 quan, rồi tự sai gia nhân đi đào, nhưng bùn cát lấp đầy, vẫn cứ ứ tắc. Nhiều lần bắt dân khơi đào, dân lấy làm khổ lắm 35.

Dưới triều Nguyễn, vua Minh Mạng nhiều lần cho vét sông Vĩnh Định. Năm 1825, do mưa lũ, sông Vĩnh Định có chỗ vỡ, vua sai cấp tiền gạo cho sửa chữa lại 36. Năm 1826, lại vét đào ở chỗ sông bị bồi nông, chi cấp tiền lương cho quân dân 37.

Năm 1840, dân xã Xuân Dương và Phú Hải ở dòng cảng cũ giáp sông Vĩnh Định, cửa cảng bị lấp không có nước tưới vào ruộng, cày cấy khó khăn, xin cho khơi đào. Vua Minh Mạng phê chuẩn rằng: “Chiếu theo các dòng cũ, các xã ấy, chỗ nào có cát lấp thì khơi cát đi, chỗ nào nông cạn thì khơi mở ra, thì vùng lúa nhờ đó có nước tưới vào mà nước mưa cũng khỏi ứ tích, việc làm ruộng chưa phải là không có lợi vậy38.

Ngoài sông Vĩnh Định, nhà Nguyễn còn cho tổ chức khơi đào một số sông khác khi thấy yêu cầu chính đáng. Năm 1822, Minh Mạng cho khơi đào sông Lễ Môn. Năm 1828, Minh Mạng miễn sai dịch cho tân binh và dân hai xã Thâm Triều (Hải Lăng), Hương Liệu (Đăng Xương) để đào kênh thủy lợi, xong việc lại cho nghỉ 6 tháng và thưởng 300 quan tiền 39.

Dưới các triều đại phong kiến, vua chúa rất quan tâm đến đào sông, khơi dòng để lưu thông và dẫn nước vào ruộng ở Quảng Trị. Các chúa Nguyễn đích thân ra hiện trường kiểm tra đôn đốc việc thi công. Nhân dân Quảng Trị đã nỗ lực, kiên trì đào sông làm thủy lợi. Nhà nước ban hành các chế độ lao động và khen thưởng, động viên cho quan chức, binh lính và nhân dân trực tiếp thực thi các công trình thủy lợi trên đất Quảng Trị, hiện nay hệ thống sông đào, dẫn thủy đó vẫn còn lưu dấu và phát huy tác dụng đối với nền nông nghiệp Quảng Trị và đời sống xã hội.

3. Trồng trọt

* Nông nghiệp trồng lúa

Vào đầu thế kỷ XVI, Dương Văn An đã mô tả cảnh đồng áng vùng Ô châu: “cày thì đóng đôi trâu, mà cái cày ở giữa, bừa thì coi như tấm phản mà người đứng ở trên. Nhà dân nhiều thóc gạo, túi không có một mảnh tiền đồng40 và một số làng ở Quảng Trị được nhắc đến như là một sự hào hiệp của thiên nhiên dành tặng cho: “Ruộng đất xã An Nhơn mở rộng thì kho đụn chứa đầy, có nước xã An Lạc ngon lành thì trâu bò béo tốt... thóc làng Đan Quế chất đống như gò, làng Đông Dương nhân nước cạn đào ao bắt cá, làng Đan Quế nhân gió rét lấp hang để đâm lợn rừng41.

Ruộng có hai vụ, vụ mùa hạ gọi là vụ chính, vụ mùa thu gọi là vụ trái. Vào thế kỷ XVI, Dương Văn An cho biết, có loại lúa nếp mọc ở núi có mùi vị rất thơm. Đến thế kỷ XVII ở phủ Triệu Phong, Lê Qúy Đôn thống kê được rất nhiều loại nếp: nếp mây, nếp kỳ lân, nếp suất, nếp hạt cau, nếp mía, nếp hương bầu, nếp ông lão (còn gọi nếp trâu). Lúa có các loại giống: lúa sa, lúa chiêm, lúa hẻo, lúa xung, lúa nhé, lúa tám, lúa đốc, lúa viên, lúa nước mặn, lúa bán nguyệt.

 Riêng ở huyện Minh Linh cũng có các loại nếp bò (lúa vàng, gạo trắng, hạt to, thơm dẻo, cấy tháng 11 tháng 4 gặt) nếp mít (lúa gạo đều trắng, tháng 11 cấy tháng 2 gặt), nếp ông lão. Giống lúa có lúa ba xã, lúa chiêm, lúa nước mặn, lúa chăm bạc, chăm xa, chăm hót. Tổng bái trời có xã Mai xá có lúa hẻo, lúa vàng, lúa nhự, lúa tám, lúa trĩ, lúa bánh lá 42. Giống nếp có nếp bầu hương, nếp bột, nếp kỳ lân, nếp trong, nếp a suất, nếp cun cút, nếp nưa, nếp mông...

Thủa đó, chỉ có tổng Bái Trời và xã Mai Xá mới trồng được lúa tẻ 5 loại giống: hẻo, vàng, nhự, tám, trĩ. Các nơi khác không màu mỡ trồng không trổ bông.

Lê Qúy Đôn có mô tả về một vùng sản xuất nông nghiệp phát triển ở Thuận Hoá vào thế kỷ XVIII như sau: “Tổng Bái Trời và xã Mai Xá thuộc huyện Minh Linh đất đều là quan điền, kỳ này người ta mướn ruộng để cày, mỗi mẫu phải nộp 50, 60 quan tiền kẽm, ngang với 17, 18 hay 20 quan tiền đồng, mỗi năm hết vụ thì trả lại ruộng, đất khô thì cày qua lên mà bừa, rồi vãi trồng, theo đó mà bừa qua, 5 ngày lúa mọc. Theo tục dân địa phương, trâu đực thì làng chỉ một con, trâu cái thì 2 con cùng cày43.

Ở Thuận Hoá vào thời Lê có loại gạo khi nấu chín có thể để đến 26 năm sau vẫn còn ăn được dùng để làm lương thực dự trữ cho quan đội đánh giặc.

Năm 1471, sau khi đánh thắng Champa. vua Lê Thánh Tông trả lại lương thực chứa trong dinh Thuận Hóa. Vua hỏi Nguyễn Văn Chất: “Gạo nấu chín có thể để được 10 năm không” - Chất trả lời: “Khoảng năm Thái Hòa (1443-1453) gạo nấu chín khi đi đánh Chiêm thành đến khi đánh Bồ Nam trải qua 26 năm còn có thể ăn được” - Vua nói: “Hạng gạo tốt mới được như thế, há không mối mục ư?”, “Đại khái để lâu vừa thì 10 năm còn tốt nguyên44.

* Các loại cây trồng khác

- Củ mài (Sắn) vào thế kỷ XVI, Dương Văn An cho biết “Củ mài ở chân núi, chất vị bình đạm” trong đó “củ mài Minh Linh có tiếng” hơn cả.

- Khoai: Thuận Hoá có nhiều loại khoai, ngon nhất là khoai sáp đường, nấu lên hơi vàng, mềm dẻo như sáp, có thứ là khoai đầu hùm, nơi nào cũng có trồng, tháng 4 trồng tháng 11 đào, củ to như cái vò, nấu ăn như mùi khoai đông xứ Kinh Bắc, có thứ gọi là khoai gừng, sắc trắng mềm dẻo, có thứ gọi là khoai nưa, củ sinh ra từng bụi rất nhiều, rọc nó có thể muối dưa.

Cũng theo Lê Qúy Đôn, ở Quảng Trị còn có các loại cây trồng như:

- Chuối: có nhiều loại chuối, chuối bụt (còn gọi là chuối nanh lợn), rất gọt và thơm, chuối sứ (chuối có hột) chuối tiêu, chuối bà hương, chuối thanh tiêu, chuối giai, chuối cau...

- Thơm, mãng cầu.

- Mít có mít ướt và mít ráo.

- Xoài có xoài voi, xoài cơm.

- Cau: 4 muà đều có mềm và ngọt, giá rất rẻ, 10 qủa có 2 đồng.

- Trầu không: 5 lá một liền, 10 liền giá 20 đồng.

- Rau đậu có bo bo (ý dĩ), mè (vừng).

- Dầu lai: trồng ở tổng Bái Trời, ép dầu để bán.

- Đặc biệt, hạt hồ tiêu ở tổng Bái Trời (Gio Linh) trong các thế kỷ XVI - XVIII là một đặc sản xuất khẩu quan trọng mang lại nguồn lợi kinh tế lớn cho dân Quảng Trị nói riêng và của cả Đàng Trong nói chung. Sách “Phủ biên tạp lục” chép: Hồ tiêu ở các phường và xã Mai Xá, tổng Bái Trời huyện Minh Linh mọc đầy rừng, leo vào các cây mà mọc, tháng 9 có hoa, tháng 11 kết quả, tháng 5 thì hái, tháng 6 thì thu xong... Xưa Đoan Quận công từng sai người y theo giá mà mua chở về cùng với vây cá, yến sào để đổi cho khách buôn lấy hóa vật, bèn  làm thành lệ. Họ Nguyễn hàng năm cứ đến thượng tuần tháng 5 thì sai đội trưởng thuyền Tân nhất cùng tinh binh ra địa phương hạ lệnh cho dân tùy vườn nhiều ít mà chia bao, họp số định giá mua lấy. một gánh hồ tiêu thì trả 5 quan tiền, chở về phố Thanh Hà bán cho khách Tàu 45.

4. Chăn nuôi

Vào thế kỷ XVI, Dương Văn An đã mô tả cảnh trù phú chăn nuôi ở nông thôn Quảng Trị: “Xóm làng trù mật nên gà chó từng đàn, cỏ nước ngon lành nên trâu bò béo tốt” 46. Chăn nuôi trâu bò để làm sức kéo, các loại gia cầm để lấy thịt là truyền thống của người Việt từ lâu đời. Ngoài ra, vùng trung du, các nhà giàu thường nuôi dê dược lãi to. Nhiều vùng trước đây vẫn có nuôi ngựa.

Đến thế kỷ XIX, các nhà giàu thường nuôi dê cũng là một ngành kinh tế thu được lãi to. Năm Minh Mạng 19 (1838), Án sát sứ Quảng Trị là Nguyễn Huy Chuẩn dâng tập thỉnh an nói: “Dân giàu trong tỉnh phần lớn theo lối nuôi dê con hoặc giữ văn tự không trả, hoặc đem lãi làm gốc47.

Canh tác lúa nước sử dụng sức kéo gia súc của người Quảng Trị xưa

Trong điều kiện môi trường tự nhiên khắc nghiệt, thường xuyên xảy ra thiên tai, hạn hán, lũ lụt nên nông nghiệp Quảng Trị chịu sự chi phối rất lớn bởi điều kiện địa hình, đất đai, khí hậu, nguồn nước và địa cư. Đặc trưng nổi bật trong phương thức canh tác của người Việt Quảng Trị là sự kết hợp giữa việc chú trọng đê điều, trị thủy với việc “dẫn thủy nhập điền”. Trong đó, cách thức tạo ra hệ thống kênh mương nội đồng để “dẫn thủy nhập điền” là nổi bật. Hệ thống canh tác truyền thống của người Việt chủ yếu là dựa vào khai thác các tài nguyên thiên nhiên bằng cách tổ chức các hoạt động sản xuất phù hợp với các điều kiện môi trường bên ngoài. Bằng sức lao động và những công cụ cầm tay, người nông dân với kinh nghiệm tích lũy từ đời này sang đời khác đã từng bước tìm ra những phương pháp phù hợp với mùa vụ và điều kiện đất đai, khí hậu thời tiết mỗi vùng. Ở đồng bằng ven các sông Thạch Hãn, Hiếu, Bến Hải, Ô Lâu... phần lớn trồng lúa nước, làm vườn. Vùng gò đồi, trung du trồng cây công nghiệp, hoa màu, làm lúa khô, làm vườn. Vùng ven biển trồng màu (chủ yếu là khoai, môn...) xen kẽ lúa và cây chắn cát. Một số nơi đã hình thành vùng chuyên canh lúa, lạc, đậu, tiêu, chè, khoai, sắn... Tính đa dạng của hệ thống canh tác không chỉ được thể hiện trong cùng một diện tích mà còn ở cơ cấu cây trồng. Việc sử dụng phân bón, xen canh, tăng vụ, gối vụ đã dược chú trọng từ xưa.

 

Hoạt động sản xuất nông nghiệp của người Việt phổ biến vẫn là trồng lúa. Ruộng lúa nước thì mỗi năm có 2 vụ: vụ mùa và vụ trái. Vụ mùa gieo cấy vào tháng chạp, gặt vào tháng 4, 5 (âm lịch). Vụ trái gieo cấy vào tháng 5, gặt vào tháng 8 (âm lịch). Giống nếp thì có nếp mây, nếp kỳ lân, nếp suất, nếp hạt cau, nếp mía, nếp hương bầu, nếp ông lão... Giống lúa thì có lúa sá, lúa chiêm, lúa hẻo, lúa xung, lúa đốc, lúa nhé, lúa tám, lúa viên (lúa nước mặn), lúa bát nguyệt... Ruộng lúa khô thì thường mỗi năm chỉ làm 1 vụ, gieo vãi vào tháng 5, gặt vào tháng 10 (âm lịch). Giống nếp thì có nếp mít, nếp bò. Giống lúa có lúa hẻo, vàng, lúa nhự, lúa tám, lúa trĩ 48. Ngày nay, lịch thời vụ không thay đổi nhiều lắm nhưng nhiều nơi đã làm ruộng 3 vụ. Kỹ thuật gieo thẳng đang thay thế kỹ thuật cấy. Các thành tựu tiến bộ của khoa học kỹ thuật cũng được áp dụng ngày càng nhiều (như thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu...). Nhiều giống lúa mới đã được đưa vào sản xuất cho năng suất cao hơn hẳn.

Công cụ sản xuất nông nghiệp cổ truyền của người Việt đựơc bổ sung và hoàn thiện qua từng thời kỳ với nhiều loại kiểu phong phú phục vụ đắc lực cho các công đoạn sản xuất. Mỗi hộ tiểu nông có một bộ công cụ thủ công với kiểu loại khác nhau tùy theo từng vùng sản xuất. Đó là các loại cày, bừa, cuốc, mai, thuổng, xe đạp nước, gàu sòng, gàu giai, dao, liềm, hái, rựa, rìu, xe tuốt lúa, thúng mủng, dần, sàng, rổ rá, bồ, lậm, chum, vại, đôộc, cối xay, cối giã, quang gánh, xe, thuyền vận chuyển... Những công cụ này chỉ dùng sức người và sức súc vật./.

Nguyễn Cường


1 Ngô Sĩ Liên. Đại việt sử ký toàn thư, tập 1. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, 1972, tr. 233.

2 Nội các triều Nguyễn. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập XII. Nxb Văn Sử Địa, HN, 1959, tr. 37.

3, 4 Quốc sử quán triều Nguyễn. Đaị Nam Thực lục (tiền biên, tập 1). Sđd, tr. 36 và 112.

5, 6, 7 Lê Qúi Đôn. Phủ biên tạp lục. Nxb Khoa học, 1964, tr. 131, 134 và 136.

8 Trương Hữu Quýnh. Chế độ ruộng đất Việt Nam, tập 2. Nxb KHXH, Hà Nội, 1983, tr. 34.

9 Trương Hữu Quýnh. Sđd, tr. 254

10 Chế độ công điền, công thổ là Chế độ ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước phong kiến, nhà vua dùng một phần ruộng đất này để ban cho những người được phong tước và cấp cho quan lại làm lương bổng, một phần giao cho các làng xã làm của công của làng xã, định kì làng xã quân cấp (cấp bình quân) ruộng đất này do dân đinh từ 18 tuổi trở lên cày cấy và nộp thuế. Chế độ công điền, công thổ tồn tại đến trước Cách mạng tháng Tám 1945.

11 Dương Văn An. Ô châu cận lục (bản dịch của Bùi Lương). Văn hóa Á châu xuất bản, Sài Gòn, 1961, tr. 43.

12 Quốc sử quán triều Nguyễn. Đaị Nam Thực lục (tiền biên, tập 1). Sđd, tr. 32.

13, 14 ,15, 16 Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam Thực lục (tiền biên, tập 1). Sđd, tr. 48 70, 112 và 115.

17 Lê Qúi Đôn. Phủ biên tạp lục. Sđd, tr. 131.

18, 19 Lê Qúi Đôn. Sđd, tr. 134 và 260.

20 Quốc sử quán triều Nguyễn. Đaị Nam Thực lục (tiền biên, tập 1). Sđd, tr. 125.

21 Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Việt sử ký tục biên. Nxb KHXH, Hà Nội, 1991, tr. 143.

22 Lê Qúi Đôn. Phủ biên tạp lục. Sđd, trang 131 và 260.

23 Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam Thực lục (chính biên, tập 1). Nxb Sử học, Hà Nội, 1962, trang 278.

24, Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam Hội điển sự lệ (quyển 37, tập 4). Nxb Thuận Hóa, Huế, 1993, trang 80.

25 Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam Hội điển sự lệ (quyển 37, tập 4). Nxb Thuận Hóa, Huế, 1993, trang 81.

26 Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam Thực lục (chính biên, tập 1). Nxb Sử học, Hà Nội, 1962, 1001.

27 Lê Quý Đôn. Phủ biên tạp lục. Sđd, tr. 355.

28 Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Việt sử kí tục biên. Sđd, tr. 410.

29 Dẫn theo: Sở Khoa học và Công nghệ Quảng Trị. Địa chí Quảng Trị. Tài liệu đã dẫn, tr. 195.

30, 31, 32 Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam Thực lục (tiền biên). Sđd, tr. 111 - 112, tr. 127 - 128.

31, 32 Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam Thực lục (tiền biên). Sđd, tr. 127 - 128.

33, 34 Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam Thực lục (tiền biên). Sđd, tr. 147, tr.160.

35 Lê Qúi Đôn. Phủ biên tạp lục. Sđd, tr. 111.

36, 37, 39 Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam Thực lục (chính biên, tập 2), Nxb Giáo dục. Hà Nội, 2004, tr. 448, 492 và 705.

38 Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam Thực lục (chính biên, tập 4). Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004, tr. 307.

40, 41, 42 Dương Văn An. Ô châu cận lục. Sđd, tr. 43 và 45.

43 Lê Qúi Đôn. Phủ biên tạp lục. Sđd, tr. 380.

44 Ngô Sĩ Liên. Đại việt sử ký toàn thư, tập 4. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1972, tr. 238.

45 Lê Quý Đôn. Phủ biên tạp lục. Sđd, tr. 322.

46 Dương Văn An. Ô châu cận lục. Sđd, tr. 37.

47 Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam Thực lục (chính biên, tập 4). Sđd, tr. 284.

48 Xem thêm: Lê Quý Đôn. Phủ biên tạp lục. Sđd, tr. 242 - 243.

XEM THÊM VỀ THÔNG TIN KHOA HỌC
MẤY VẤN ĐỀ VỀ VĂN BẢN HÁN NÔM LÀNG XÃ QUẢNG TRỊ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, BÓC PHONG HÓA, NHẬN DIỆN CẤU TRÚC GIẾNG SỐNG ĐÌNH TRẦN - NÉT VĂN HOÁ ĐẶC TRƯNG TRONG KIẾN TRÚC ĐÌNH LÀNG QUẢNG TRỊ DẤU ẤN PHẬT GIÁO CHAMPA VÙNG QUẢNG TRỊ ĐỜI SỐNG KINH TẾ CỦA CÁC TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ Ở MIỀN TÂY QUẢNG TRỊ KỸ THUẬT XÂY DỰNG GIẾNG CHĂM (DẪN LIỆU TỪ VÙNG QUẢNG TRỊ)