Cập nhật ngày: 4/19/2023 7:12:07 PM
Làng là đơn vị tụ cư truyền thống của người Việt, “là khối dân cư ở nông thôn làm thành một đơn vị có đời sống riêng về nhiều mặt, là đơn vị hành chính thấp nhất thời phong kiến” 1. Làng là “đất thiêng”, có ý nghĩa rất đặc biệt gắn liền với vòng đời của mỗi con người, nơi lưu giữ những giá trị truyền thống đã được cộng đồng lựa chọn, giữ gìn và phát huy.
Làng xã truyền thống người Việt ở Quảng Trị được hình thành bằng nhiều con đường trong suốt tiến trình lịch sử 2, được định hình rõ nét với những cuộc di dân cưỡng bức hay tự nguyện từ thời nhà Hồ (thế kỷ XV) và sau đó là dưới thời các chúa Nguyễn. Khi đến vùng đất mới, những lớp lưu dân này mang theo vốn liếng là những truyền thống văn hoá của vùng đất cội nguồn, đến đây giao thoa, hoà quyện và tiếp biến với nền văn hoá của lớp cư dân tiền trú tạo nên một không gian văn hoá đặc sắc. Trải qua quá trình phát triển, cộng đồng dân cư ở các làng quê đã sáng tạo ra những sinh hoạt văn hóa, các thiết chế và liên kết xã hội hết sức chặt chẽ, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của đời sống kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã làm cho bức tranh văn hoá làng xã truyền thống có những sự biến đổi đa dạng, phức tạp. Một quá trình chuyển đổi cơ cấu văn hoá đang diễn ra do những biến đổi sâu sắc của đời sống kinh tế - xã hội, chứa đựng sự pha trộn các yếu tố truyền thống - hiện đại; nông nghiệp - công nghiệp; nông thôn - đô thị và làm nảy sinh nhiều vấn đề cần quan tâm. Nghiên cứu về sự biến đổi văn hoá làng xã truyền thống sẽ giúp định hình lên những phải pháp trong quản lý, giữ gìn và phát huy các giá trị mang tính bản sắc ở các làng quê hiện nay.
1. Văn hoá làng xã và sự biến đổi văn hoá làng
Văn hóa làng là hình thái văn hóa đặc biệt, gắn liền với các làng tụ cư cổ truyền ở nông thôn của người Việt, có thể hiểu “Văn hoá làng là bản sắc riêng của làng, là toàn bộ cuộc sống của làng với những đặc điểm mang tính chất truyền thống từ ăn, ở, đi lại, mọi hoạt động, cách tổ chức, những quy ước, lối sống, ứng xử, những phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng cho đến cả tâm lý của mọi thành viên trong làng với những đặc trưng riêng của nó” 3
Khi nói đến văn hoá làng, cần quan tâm đến tính truyền thống. Tuy nhiên, không nên hiểu đơn giản rằng, tính truyền thống là những cái thuộc về quá khứ và cho rằng nó đã bị lỗi thời trong thời hiện đại, mà ngược lại, nên hiểu truyền thống là những cái đã được thử thách qua thời gian, là sự chuẩn mực mà toàn thể cộng đồng đã lựa chọn, bảo lưu, giữ gìn và phát triển. Tính chất truyền thống là những thứ ổn định cần được bảo vệ và có trách nhiệm phát huy nó, làm cho nó phong phú, đa dạng và tốt đẹp hơn.
Biến đổi văn hoá làng là sự vận động, thay đổi bức tranh văn hoá làng nói chung hay sự biến đổi của các thành tố, các phương diện trong chỉnh thể đời sống văn hoá của cộng đồng làng. Đó là sự thay đổi không gian sống, lối sống, các phong tục tập quán, thay đổi chức năng của các thiết chế văn hoá truyền thống…
Sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của đời sống kinh tế - xã hội không chỉ làm biến đổi đời sống văn hoá đô thị mà còn làm biến đổi văn hoá ở các làng quê truyền thống. Nhìn chung sự biến đổi đó có tác động tích cực, đem lại sự tiến bộ trong đời sống xã hội nông thôn, thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị. Nhưng đồng thời, quá trình này cũng cho thấy những vấn đề phức tạp nảy sinh ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội và văn hoá của cộng đồng làng như nảy sinh lối sống thực dụng, đề cao giá trị vật chất; các yếu tố văn hoá ngoại lai, độc hại xâm nhập dẫn đến nguy cơ mai một những giá trị truyền thống tốt đẹp; những vấn đề phức tạp trong an ninh trật tự ở khu vực nông thôn; sự ô nhiểm môi trường v.v…
2. Những nét biến đổi văn hóa làng xã truyền thống người Việt Quảng Trị trong xu thế phát triển hiện nay
Làng xã truyền thống người Việt ở Quảng Trị khá đa dạng về loại hình như làng nông nghiệp; làng ngư nghiệp ở vùng ven biển, làng chài ven sông ngòi; làng nghề truyền thống hay đan xen kiểu làng vừa làm nông nghiệp kết hợp làng nghề. Sự đa dạng đó đã tạo nên một không gian văn hoá làng đặc sắc, nhiều gam màu trên đất Quảng Trị.
Diện mạo làng quê Quảng Trị đổi thay từ khi phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” và “Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới” ra đời, cùng với đó là quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Với mục tiêu đẩy mạnh phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao đời sống của nhân dân, chính quyền các địa phương trong tỉnh đã tập trung đẩy mạnh công tác tuyên tuyền, vận động nhân dân đoàn kết, giúp đỡ nhau bằng nhiều hình thức thiết thực, các thiết chế văn hoá được đầu tư xây dựng từ tỉnh đến cơ sở; thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội; loại bỏ dần những yếu tố hủ tục, mê tín dị đoan, tạo ra không gian văn hoá lành mạnh ở khu vực nông thôn.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động và ảnh hưởng tích cực thì sự phát triển kinh tế - xã hội, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay cũng tạo ra những hiệu ứng không mong muốn đối với đời sống xã hội và văn hoá của cộng đồng dân cư ở các làng quê: Sự chuyển dịch cơ cấu lao động do một bộ phận cư dân nông thôn rời xa làng quê lên các thành phố học tập và tìm kiếm việc làm; diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp dẫn đến dư thừa lao động; tình trạng bán đất vườn, san lấp, lấn chiếm ao hồ, mương máng làm mất dòng chảy tự nhiên; mối quan hệ giữa gia đình với gia đình, gia đình với cộng đồng làng xã có sự suy giảm; sự yếu kém trong xử lý nước thải, rác thải gây nên ô nhiểm môi trường đã làm ảnh hưởng đến cảnh quan các làng quê và đời sống, sức khoẻ của nhân dân. Nhiều làng quê có các tuyến đường lớn chạy ngang qua, đời sống nhân dân được nâng cao nhưng cũng xuất hiện nhiều thành phần, tầng lớp dân cư trong làng đã nảy sinh ra nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Trong dòng chảy của sự phát triển đó, làng người Việt ở Quảng Trị đã có những nét biến đổi cơ bản trên một số phương diện.
Biến đổi không gian và tính ổn định của làng
Đặc trưng không gian làng người Việt ở Quảng Trị mang dáng dấp đặc trưng của làng xã miền Trung khi không gian làng cởi mở hơn chứ không khép kín sau luỹ tre làng như các làng ở phía Bắc, “các dạng công trình kiến trúc như cổng làng, đường làng, phương tiện hiển thị cương giới đều không được hiện thị theo dạng bề nổi, tạo ngay ấn tượng ban đầu cho mọi người” 4. Do sức ép của sự gia tăng dân số, nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội cùng với sự thu hẹp đáng kể diện tích đất nông nghiệp đã làm cho không gian cảnh quan ở các làng quê biến đổi rõ rệt. Bên cạnh không gian cư trú truyền thống được định vị theo các xóm là những hình thức tập trung dân cư mới như khu di dân, khu tái định cư, xóm mới v.v. làm cho không gian làng được mở rộng hơn.
Nếu như ở các làng xã truyền thống trước đây có sự phân biệt rõ rệt giữa dân chính cư và dân ngụ cư. Dân chính cư là dân gốc ở làng ấy, còn dân ngụ cư là từ nơi khác đến trú ngụ; mọi quyền lợi của dân chính cư được ưu tiên, còn dân ngụ thì bị hạn chế. Sự phân biệt này chính là sản phẩm của cơ chế văn hoá nông nghiệp, đó là “một phương tiện duy trì sự ổn định của làng xã” 5. Sự phân biệt này nhằm hạn chế việc người dân bỏ làng đi ra ngoài cũng như không cho người ngoài vào sống trong làng để duy trì sự ổn định của làng xã. Ngày nay sự phân biệt đó không còn, mặc dù vẫn còn tình cảm gắn bó với làng nhưng nhiều người vẫn rời xa làng quê mình để đến sống ở những địa phương khác hay những người từ nơi khác đến sinh sống tại làng đã làm cho tính ổn định của làng quê hiện nay bị biến đổi.
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, sự nóng lên của thị trường bất động sản ở khu vực nông thôn cũng dẫn đến sự mất ổn định trong các làng quê. Tình trạng mua bán đất vườn, đất ruộng để phân lô bán nền diễn ra khắp nơi làm cho giá đất ở nông thôn tăng cao. Nhiều người đổi đời nhờ bán đất nhưng cũng lắm người không mua nổi đất để định cư tại làng. Thành phần dân cư trong làng đã có sự đan xen giữa người đi kẻ ở. “Tấc đất tấc vàng” đã kéo theo tình trạng san lấp ao, hồ, mương máng làm mất dòng chảy tự nhiên. Tranh chấp, kiện tụng liên quan đến đất đai đã làm mất tình làng nghĩa xóm, mất tình anh em trong gia đình, dòng tộc. Đời sống vật chất thay đổi, nhiều thành phần dân cư xuất hiện, các yếu tố ngoại lai tác động đã làm cho tính ổn định ở các làng quê mờ dần so với trước đây.
Biến đổi sự liên kết giữa gia đình - dòng tộc - láng giềng
Trong bối cảnh kinh tế - xã hội chuyển đổi, sự đa dạng của các hoạt động nghề nghiệp, việc làm khiến cho nhiều thành viên trong gia đình trở nên bận rộn hơn. Trước đây, hoạt động nghề nghiệp chủ yếu tập trung vào nông nghiệp nên mọi người có thể làm việc cùng nhau, giờ đây, cơ hội nghề nghiệp và việc làm được mở rộng thì các thành viên trong gia đình không làm chung một công việc mà mỗi người lựa chọn những công việc riêng. Các thành viên ít có thời gian dành cho nhau như trước kia, sợi dây gắn kết giữa các thế hệ, thành viên trong gia đình nông thôn hiện nay tuy vẫn được duy trì nhưng đang có chiều hướng suy giảm.
Khi đời sống vật chất ở khu vực nông thôn được nâng lên, mọi người bận rộn với những công việc riêng nên hoạt động giao tiếp, gặp gỡ giữa những người láng giềng bị hạn chế. Mỗi gia đình đều có những không gian riêng, hoạt động độc lập nên đôi khi sự quan tâm mang tính chất láng giềng không còn được liên kết như trước kia. Mặc dù, tính cộng đồng làng xã vẫn luôn được duy trì, sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong một số công việc như tang ma, cưới hỏi vẫn được thể hiện trong đời sống của cư dân các làng quê. Các loại hình dịch vụ phát triển đa dạng khiến nhiều người lựa chọn sử dụng các dịch vụ thay vì tìm kiếm sự giúp đỡ từ họ tộc hay xóm giềng, mức độ phụ thuộc của các thành viên trong làng không còn được như xưa.
Biến đổi của các thiết chế văn hoá làng xã
Đời sống kinh tế - xã hội phát triển đã làm cho các thiết chế văn hoá làng truyền thống như đình, chùa, chợ, cổng làng đều có những sự thay đổi nhất định. Điều dễ nhận thấy là các làng đã xây dựng cổng làng/cổng chào ngay đầu làng; chùa làng được xây dựng khang trang hơn; chợ làng đã có nhiều sản phẩm hàng hoá hơn chứ không đơn thuần chỉ là sự trao đổi, mua bán sản phẩm tự làm ra trong nội bộ làng... Các làng đều quan tâm trùng tu, xây dựng đình làng, nhà thờ họ, miếu xóm đã tạo nên một diện mạo mới trong các thiết chế văn hoá làng xã.
Trong sự biến đổi các thiết chế văn hoá làng, có lẽ sự biến đổi chức năng của đình làng sang thiết chế nhà văn hoá là rõ nét hơn cả. Đình làng là một thiết chế văn hoá cổ, nơi diễn ra các sự kiện văn hoá, chính trị của cả làng, là một không gian sinh hoạt cộng đồng trong làng xã với ba chức năng: “hành chính, tín ngưỡng và văn hóa”. Tuy nhiên, hiện nay chương trình xây dựng nông thôn mới với tiêu chí xây dựng thiết chế nhà văn hoá đến tận thôn làng cũng đã phần nào làm biến đổi chức năng của đình làng. Giờ đây Đình chỉ thực hiện chức năng về tín ngưỡng, là nơi thờ tự “bổn thổ thành hoàng”, nơi tổ chức các nghi lễ của làng. Chức năng hành chính và văn hoá của đình đã chuyển sang thiết chế nhà văn hoá. Các nhà văn hoá, ngoài việc phục vụ thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, còn đáp ứng nhu cầu tập luyện, vui chơi, giải trí của nhân dân, trở thành nơi thường xuyên tổ chức các hoạt động thông tin tuyên truyền cổ động, tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ, sinh hoạt cộng đồng, địa điểm tổ chức các hoạt động văn hóa, tập luyện thể thao thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia.
Biến đổi trong đời sống tinh thần
Những biến đổi trong cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội của người dân các làng quê là tiền đề đưa tới những thay đổi trong đời sống văn hoá tinh thần của cộng đồng làng. Điều này thể hiện ở mức thu nhập và mức sống của người nông dân được nâng lên, đi cùng với điều kiện cơ sở hạ tầng được xây dựng đã phá vỡ tính khép kín của làng, đồng thời thúc đẩy sự giao lưu, tiếp biến văn hoá. Các làng quan tâm hơn đến việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá cũng như phục dựng lại các Lễ hội của làng. Các lễ hội, trò vui truyền thống cũng được bổ sung nhiều hoạt động mang hơi thở cuộc sống đương đại được tổ chức thường niên trong các dịp lễ, thu hút đông đảo người dân của làng về tham gia. Nhiều di tích đã được đầu tư trùng tu, tôn tạo phục vụ lại đời sống tâm linh của cộng đồng.
Các thiết chế văn hoá được đầu tư xây dựng ngày càng khang trang, hiện đại cùng với hệ thống thông tin phủ sóng khắp các xóm thôn đã làm biến đổi phương thức trao đổi thông tin và nhu cầu giải trí ở các làng quê theo hướng được mở rộng, đa dạng hoá. Người dân nông thôn không còn quanh năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” đầu tắt mặt tối với cây lúa cây ngô mà họ đã có thể lựa chọn cho mình những hình thức giải trí phù hợp. Các hoạt động văn hoá quần chúng được tổ chức thường xuyên, thu hút người dân tham gia với nhiều loại hình câu lạc bộ, hội nhóm văn nghệ, thể dục thể thao tuỳ theo lứa tuổi. Hệ thống tiếp cận thông tin trong các gia đình càng được mở rộng với những phương tiện nghe nhìn hiện đại, tỉ lệ người dân sử dụng các sản phẩm công nghệ và dịch vụ kỹ thuật có sử dụng Internet có xu hướng gia tăng trên địa bàn tỉnh.
Các phong tục tập quán, lối sống của người dân làng quê có sự biến đổi rõ nét khi tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp ngày càng giảm và cùng với đó là xu hướng đa dạng hoá trong cơ cấu nghề nghiệp, việc làm. Một bộ phận cư dân không còn bám chặt đồng ruộng mà đã chuyển sang các hoạt động kinh doanh dịch vụ, làm công nhân….; các làng nghề được mở rộng hơn theo hướng sản xuất hàng hoá với sự hổ trợ của máy móc đã làm cho nhịp sống ở các làng quê thêm sôi động. Bên cạnh lối sống trọng tình nghĩa vẫn được duy trì thì đã xuất hiện thói quen tiêu dùng đô thị, coi trọng sự minh bạch, sòng phẳng. Các phong tục trong việc cưới, việc tang vẫn tiếp nối truyền thống nhưng được cải biến theo hướng hiện đại hơn, giản tiện hơn để phù hợp với nhịp sống.
Thay lời kết
Văn hoá là dòng chảy không ngừng nghỉ, trong dòng chảy đó có những giá trị sẽ được bồi đắp, phát triển để có thể trường tồn cùng thời gian, có những giá trị mang ý nghĩa lịch sử, khi điều kiện khai sinh ra những giá trị ấy thay đổi hoặc không còn thì tự thân giá trị ấy sẽ suy giảm và phai nhạt. Trong xu thế phát triển theo hướng hội nhập hiện nay, việc “giao lưu” và “tiếp biến” văn hoá là một quy luật phát triển. Vấn đề là chúng ta phải biết chọn lọc những giá trị tốt đẹp, phù hợp với truyền thống dân tộc và không đi ngược lại xu thế của thời đại. Trên tinh thần đó, nhiều làng quê Quảng Trị vẫn duy trì nhiều phong tục, tập quán lối sống tốt đẹp như coi trọng quan hệ họ tộc, tình làng nghĩa xóm, tôn trọng người cao tuổi, coi trọng học hành, đoàn kết giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất…Đó chính là những yếu tố văn hoá quan trọng, là sức mạnh nội sinh, góp phần bồi đắp, khơi gợi tinh thần, ý thức tự giác của cộng đồng trong các làng quê.
Sự biến đổi của các làng quê theo xu thế phát triển hiện nay là một tất yếu khách quan, để hồn quê không mất đi, công tác tuyên truyền cần được tăng cường hơn nữa sao cho mỗi gia đình, mỗi người dân, mỗi cộng đồng thấy được trách nhiệm của mình trong việc giáo dục con cháu gìn giữ những nét văn hoá truyền thống tốt đẹp của quê hương; xây dựng và hoàn thiện các quy định ứng xử ở làng trong tất cả các mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội; xây dựng các giá trị văn hoá mới phải tiến bộ, đậm đà bản sắc truyền thống; có những quy ước cụ thể chống lối sống thực dụng, đảo lộn các thang giá trị xã hội, sự phá hoại thuần phong mỹ tục, tập quán tốt đẹp của làng xã truyền thống; có cơ chế, chính sách ưu đãi đối với các thiết chế văn hoá cơ sở, đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác quản lý văn hoá, đẩy mạnh xã hội hoá nhằm huy động các nguồn lực vào giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá làng. Để làng quê trở thành nơi lưu giữ bản sắc văn hoá của cộng đồng, trở thành một chốn yên bình trong mỗi con người. Đồng thời, những làng còn lưu giữ những nét xưa đã trở thành những địa chỉ du lịch hấp dẫn, có giá trị rất lớn trong phát triển kinh tế, đặc biệt là phát triển loại hình du lịch cộng đồng. Vậy nên, hạn chế sự tác động từ bên ngoài, khơi dậy được nội lực bên trong, phát huy được những giá trị truyền thống tốt đẹp sẽ tạo ra một liều kháng thể chống lại những vi rút độc hại xâm nhập vào đời sống ở các làng quê hiện nay.
Phan Trường Định
Chú thích
1. Viện ngôn ngữ học. Từ điển Tiếng Việt. Nxb Hồng Đức, 2019, tr. 685.
2. Trịnh Cao Nguyên, Các con đường hình thành làng xã người Việt Quảng Trị trong tiến trình lịch sử. Tạp chí Cửa Việt, số 278, năm 2017.
3. Hoàng Anh Nhân. Văn hoá làng và làng văn hoá. Nxb Thanh Hoá, 1996, tr. 35.
4. Nguyễn Hữu Thông. Mấy nét đặc trưng của làng xã miền Trung. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 2 năm 2003, tr. 26.
5. Trần Ngọc Thêm. Cơ sở văn hoá Việt Nam. Nxb Giáo Dục, 1999, tr. 94.
HỘI NGHỊ VIÊN CHỨC, NGƯỜI LAO ĐỘNG NĂM 2024
THÔNG BÁO XÉT TUYỂN VIÊN CHỨC SỰ NGHIỆP NĂM 2023
TẬP HUẤN KIỂM KÊ, SƯU TẦM, TƯ LIỆU HOÁ DI SẢN VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG
Bộ Văn hóa ra Quyết định đưa vào danh mục Văn hóa phi vật thể Quốc gia: LỄ HỘI ARIÊU PIING CỦA NGƯỜI TÀ ÔI (PA CÔ) huyện Đakrông, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị.
ĐOÀN ĐẠI BIỂU CẤP CAO TỈNH SÊ KÔNG, NƯỚC CHDCND LÀO THĂM DI TÍCH ĐỊA ĐẠO VỊNH MỐC
HOẠT ĐỘNG ĐOÀN THANH NIÊN HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 76 NĂM NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SỸ
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI VÀ ĐOÀN CÔNG TÁC VIẾNG THĂM DI TÍCH LỊCH SỬ TỈNH QUẢNG TRỊ
ĐOÀN ĐẠI BIỂU CẤP CAO TỈNH CHAMPASAK, NƯỚC CHDCND LÀO THĂM DI TÍCH ĐỊA ĐẠO VỊNH MỐC
ĐOÀN LÃNH ĐẠO TỈNH QUẢNG TRỊ DÂNG HƯƠNG, TRI ÂN CÁC ANH HÙNG LIỆT SĨ TẠI DI TÍCH QUỐC GIA THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ
HỌP BÀN PHƯƠNG ÁN TRÙNG TU TÔN TẠO DI TÍCH QUỐC GIA ĐÌNH LÀNG HÀ THƯỢNG
THÔNG BÁO DANH SÁCH THÍ SINH ĐẢM BẢO ĐIỀU KIỆN DỰ TUYỂN